The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  1. Các minh tinh giới nghệ sĩ cuồng nhiệt và thổi phồng về tình dục Tantra

 CÁC MINH TINH GIỚI NGHỆ SĨ CUỒNG NHIỆT VÀ THỔI PHỒNG VỀ TÌNH DỤC TANTRA[1]

Bao gồm rất nhiều nghệ sĩ như Diddy, Sting, Heather Graham đều tự xưng là đã từng tham gia tình dục Tantra.

Tác giả: Susan Donaldson James

Ngày 23 tháng 6 năm 2009

Trong một đoạn clip trên You Tube hướng dẫn người mới học về tình dục Tantra, một đôi nam nữ quần áo nghiêm chỉnh đang làm mẫu về các tư thế ngồi của tình dục Tantra [2].

Người con gái ngồi trên đùi của người con trai, nhìn thẳng sâu vào đôi mắt anh ta, hai bên điều tiết hơi thở của mình thành một nhịp, tiến hành các động tác lên xuống nhấp nhổm theo nhịp, tốc độ rất chậm, kỹ thuật này gọi là “cơn sóng tùy thuận[3]”.

Pháp môn tu hành của Ấn Độ giáo cổ kính này được phong là “Hỷ lạc chi môn – tức pháp môn hỷ lạc [4]”. Những người tham gia có ca sĩ nhạc Rock Sting và vợ của anh ta Trudy, nữ diễn viên Heather Graham, nhà sản xuất Sean “Diddy” Combs.

Chỗ kích thích hôm qua là điểm G [5], hôm nay đổi sang Mạch Luân – là 7 trung tâm thần kinh cảm giác trong cơ thể mà những người đề xướng tình dục Tantra xác nhận.

Trong quan hệ tình dục truyền thống, hai bên nam nữ thường dựa vào sức đẩy thụt mạnh để đạt được cực khoái tình dục. Còn trong tình dục Tantra, hai bên nam nữ sẽ kéo dài thời gian làm tình để tích trữ nhiều hơn năng lượng tình dục để đạt được cực khoái mãnh liệt hơn, hoặc mấy lần cực khoái [6].

Những người mới học thường dành mấy tuần để luyện động tác thân nhiệt – tức chỉ nói những lời yêu đương và vuốt ve nhẹ đối phương [7], chứ không có hành vi tình dục thực sự [8].

Theo cuốn “Phép tu tập đơn giản của tình dục Tantra dành cho người mới học” của tác giả Judy Kuriansky, tình dục Tantra càng ngày càng phổ biến, và sự tham gia của các danh nhân cũng “nâng cao danh tiếng cho nó”.

Phương pháp hô hấp cũng giống như ngồi tọa thiền, hai bên nam nữ có thể thông qua phương pháp này (tình dục Tantra) truyền năng lượng cho đối phương thông qua cơ thể của mình… Judy Kuriansky nói: “Điều này hoàn toàn là có thật! Tôi có một số bệnh nhân, trước đây có vấn đề về tình dục và quan hệ nam nữ, sau khi đến tham gia một hai khóa học hô hấp và nhìn chăm chú vào mắt đối phương, nói với bạn tình rằng: ‘Anh ở bên em, anh yêu em!’, bây giờ chạy đến nói cho tôi biết: ‘Trời ơi! Tôi cảm thấy hoàn toàn thay đổi!’”.

Sean “Diddy” Combs, 39 tuổi, tuyên xưng rằng anh ta đã đạt được sức mạnh cực lớn và bền bỉ thông qua luyện tình dục Tantra.

Khi nhắc đến chuyện anh ta và bạn gái Kim Porte (Kim Porte là mẹ của 2 đứa con gái sinh đôi 4 tuổi của anh ta) đến Paris nghỉ mát, anh ca sĩ nhạc rap này nói với tờ báo Mirror Luân Đôn rằng: “Chúng tôi vừa xuống máy bay là đến thẳng tháp Eiffel, cùng uống sâm-panh trên đó, sau đó cứ thế hôn nhau. Sau đó, chúng tôi về phòng ngủ, thực hành ít nhất 30 tiếng tình dục Tantra, còn gọi dâu tây bơ để ăn”. Anh ta nói: “Lúc tôi làm việc rất cẩn thận, lúc làm tình càng tỷ mỉ hơn”…Tình dục Tantra bắt nguồn từ Ấn Độ, đã lưu truyền hơn 6000 năm rồi [9]. Trong tiếng Phạn, từ “Tantra” có nghĩa là “công cụ mở rộng hoặc dệt vải”.

Có một số người cho rằng tình dục Tantra giúp người ta tìm lại được quan hệ thân mật trong tình dục [10].

Có một số trang web còn hình dung nó là “con đường thông đạt thần thánh”, nhưng ngoại trừ điều này ra, nó còn là một pháp môn tu đạo cao quý, chi phí cho một khóa tu tập 2 ngày có khả năng hơn 950 đô la Mỹ…(hết trích)

--------------

Từ tư liệu trên mạng tin tức của ABC nước Mỹ này, chúng ta có thể ấn chứng (xác thực) được những lời nói trong sách của Đạt Lai Lạt Ma. Cũng có nghĩa là, Yoga Tantra mà Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) quảng bá chỉ là trọng điểm tu hành lấy tình dục nam nữ làm nòng cốt. Nhờ cái tôn chỉ trọng tâm này mà đã thu hút được rất nhiều nhân sĩ cuồng nhiệt với tình dục của Âu Mỹ tham gia, giới nghệ thuật chính là nhóm người mang tính mục tiêu. Yoga Tantra sở dĩ được thịnh hành ở Âu Mỹ, một trong những nội dung thu hút họ là bản thân tình dục. Tuy những người truyền thụ môn tình dục Tantra hét giá không rẻ, nhưng nhân sĩ phương Tây lại ảo tưởng rằng thông qua việc luyện tập tình dục Tantra (Yoga Tantra) sẽ giúp họ khi làm tình nam nữ có thể “giành được sức mạnh cực lớn và bền lâu”. Do đó, những người tham gia luyện tập rất nhiều, nhưng rốt cuộc cũng dẫn đến rất nhiều vụ xâm hại tình dục, cho đến những vụ lây nhiễm bệnh tình dục [11]. Vậy thì Vô thượng Yoga Tantra của Phật giáo Tạng truyền có thực sự đạt được sức mạnh lâu bền về mặt tình dục hay không? Thực ra chỉ thấy có một số ít người tuyên truyền thôi. Công hiệu thực sự của tình dục Tantra liệu có được như vậy? Vẫn cần phải đợi tra xét, chứng thực. Song có điều, tình dục Tantra của Phật giáo Tạng truyền tuyên truyền, phổ biến như vậy, khiến cho nhân sĩ giới nghệ thuật nước Mỹ trở nên cuồng nhiệt và thổi phồng về tình dục Tantra lại là một sự thực không thể tranh cãi. Chính vì nhờ có nhân sĩ giới nghệ thuật nước Mỹ cuồng nhiệt với tình dục Tantra nên các Lạt Ma mới tranh thủ tiếp thị mình, lợi nhuận của thương vụ này chỉ nghĩ là đã biết rồi.

Từ sự thực mà bản tin này đưa ra, chúng ta phát hiện ra một vấn đề rất thú vị, cũng chính là điều mà Đạt Lai Lạt Ma nói trong sách, là về tư cách mà khi tu luyện song thân pháp tình dục Tantra cần có đủ, Đạt Lai nói rằng phải là “người tu hành có từ bi và trí tuệ kiên định (mới) có thể áp dụng tình dục vào tu hành. Điểm này hiển nhiên không khớp với sự thực, khiến cho độc giả sinh nghi: “Đạt Lai nói phải có điều kiện này đúng là một kiểu nói láo”. Có một điều chúng ta còn phải suy nghĩ thêm nữa là: “Tình dục Tantra này và tu hành của Phật giáo có liên quan gì đến nhau? Các Lạt Ma của Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) chủ yếu phổ biến tình dục Tantra như thế, trên thực tế có thực sự phù hợp với nội dung tu hành của Phật giáo?” Trước khi nghiên cứu vấn đề này, trừ việc tìm hiểu giới nghệ thuật của nước Mỹ ra, chúng ta liệu có manh mối nào khác có thể biết được chân tướng của Lạt Ma giáo? Chúng ta hãy xoay câu chuyện này sang nước Pháp, đọc một bài báo tiếng Pháp xem thế nào.

Tháng 9/2010 ở thành phố La Rochelle phía Tây nước Pháp từng tổ chức 3 lớp nghiên cứu học tập Tantra, trong đó nội dung của lớp thứ nhất và thứ hai có chút khác nhau, nhưng đều lấy việc nghiên cứu, học tập tình dục Tantra là chính. Những học viên tham gia đều có thể tự do lựa chọn, báo danh bất kỳ một lớp nghiên cứu tình dục nào. Đơn vị tổ chức hy vọng các học viên thông qua lớp nghiên cứu này đạt được mục đích: “Chia sẻ tình yêu thực sự với nửa còn lại, có một quan hệ ái tình sâu sắc lâu dài, giành được một cuộc sống tình dục lành mạnh vui vẻ”. Từ mục đích nói trên, chúng ta có thể biết được cái lớp nghiên cứu tình dục Tantra ở nước Pháp chỉ là thông qua cách thức nghiên cứu, thực hành tình dục nam nữ để đạt mục tiêu nhục dục nam nữ, cuộc sống tình dục bên lâu. Trong trang web nói về “Lớp nghiên cứu thứ nhất và lớp nghiên cứu thứ 2 về Tantra [12]”, có một bài viết thuyết minh về mối quan hệ sâu sắc giữa tình dục Tantra và Lạt Ma giáo. Bài viết này do một vị Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền thực tu tình dục Tantra (Yoga Tantra) tên là Shamar Nhân Ba Thiết viết, ông ta cũng là một nhân vật truyền thừa quan trọng của Phật giáo Tạng truyền. Trong bài viết này có giới thiệu quá trình tu học tình dục Tantra từ thuở ban đầu của bản thân Shamar Nhân Ba Thiết và các Lạt Ma danh tiếng khác, cũng như vai trò của tình dục Tantra trong Lạt Ma giáo, còn viết cả chuyện tình dục Tantra làm thế nào phát triển được ở thế giới phương Tây. Chúng ta hãy xem nội dung trong đó nói gì nào.

 


[2] Kỳ thực, việc tụ hội nhóm tình dục Tantra như thế này cũng đã từng xảy ra ở Đài Loan. Ví dụ, Nhật báo Quả táo ngày 13/6/2006 đã viết bài với tiêu đề “Phơi bày chuyện 20 nam nữ làm tình tập thể - Yoga tình dục xâm nhập Đài Loan, người theo học bị chửi là dâm loạn”, trong đó mô tả nội dung của thuật Yoga tình dục như sau: “Đoàn thể dâm loạn xâm nhập Đài Loan. Ông Giản Thượng Kỳ, phó Giáo sư khoa Điêu khắc Đại học Nghệ thuật Đài Loan đã tổ chức 2 buổi tọa đàm đầu tháng này, công nhiên cổ súy tu luyện thuật Yoga “Đàm Thôi (Tantra)” của Ấn Độ cổ, để nâng cao khả năng tình dục của con người, từ đó tăng cường cực khoái tình dục liên tục. Theo tiết lộ của “Quả táo” thì các học viên nam nữ tham gia Tantra trong tình trạng không hề quen biết nhau đã được sắp xếp từng cặp để tiến hành làm tình tập thể, mức độ dâm loạn thách thức cả thuần phong mỹ tục của Đài Loan, hơn nữa còn phá đổ cả hôn nhân gia đình, thậm chí dẫn đến những vấn đề như lạm dụng tình dục, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, bệnh HIV…”. Nguồn tư liệu: http://tw.nextmedia.com/applenews/article/art_id/2675950/IssueID/20060613

[3] Trích dẫn từ bài ngày 13/6/2006 của Nhật báo Quả Táo: “Giản Thượng Kỳ giải thích nhật nguyệt ôm nhau, chùy Kim Cương của nam giới (dương vật) phải đặt vào trong Hoa sen của nữ giới (âm hộ). Hai học viên làm xong đều được yêu cầu “tìm tiếp bạn mới để cặp đôi”. Các học viên còn phải luyện tập “Hỏa hô hấp”, tức là một dạng thở có phát ra tiếng “heng” từ mũi”.

[4] Đây là phương pháp tu hành của phái Tính Lực của Ấn Độ cổ, như Đạt Lai Lạt Ma viết trong sách: “Minh Phi Kim Cương giới Tự tại Mẫu giống như Kim Cương trì, hai tay cầm chuông chùy Kim Cương, vòng tay ôm lấy Kim Cương trì. Song tôn đều đeo trang sức quý Anh lạc ma ni, rồi chìm đắm vào trong Đại lạc cuồng hỷ”. (Theo “Hỷ lạc và Không vô” của Đạt Lai Lạt Ma, nhà xuất bản Úm A Hồng, in lần 1 bản 1 năm 1998, trang 135).

[5] Là nơi được cho rằng kích thích tình dục có thể khiến cho nữ giới đạt được cực khoái tình dục.

[6] Đạt Lai Lạt Ma nói: “Cảm giác mãnh liệt nhất là lúc đang đạt được cực khoái tình dục, đây là một trong những nguyên nhân mà việc tu tập Đại lạc sở dĩ bao quát cả trong mật tục Yoga tối cao…Khi đạt cực khoái tình dục, vì kinh nghiệm xuất hiện Minh quang khá lâu, do đó, anh rất có cơ hội lợi dụng thêm”. Theo cuốn “Tiết lộ bí mật của tâm trí”, tên tiếng Anh là “Gentle bridges: Conversations with the Dalai Lama on the sciences of mind” tác giả Jeremy W. Haywood và Francisco J. Varela, Cận Văn Dĩnh dịch, Công ty hữu hạn xuất bản văn hóa Chúng sinh, bản in đợt đầu 30/6/1996, trang 147-148.

[7] Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trong cuốn “Thế giới Phật giáo Tạng truyền” cũng nói: “Chỉ có Vô thượng Yoga mới có thể hoàn toàn thể hiện được sự sâu rộng và độc đáo của Mật tục, do đó, chúng ta nên coi 3 bộ khác là cấp bậc để hướng tới Vô thượng Yoga… Tuy bốn bộ Mật tục đều lợi dụng dục vọng để dẫn dắt hành giả nhập đạo, nhưng tầng nấc dục vọng được sử dụng lại khác nhau. Trong bộ thứ nhất “Sự tục”, dục niệm nhập đạo chỉ là cái nhìn chăm chú đối với người khác giới có sức hấp dẫn mà thôi. Ý niệm nhập đạo của ba bộ còn lại – Hành bộ, Yoga bộ và Vô thượng Yoga bộ thì lần lượt là mỉm cười với người khác giới kia, từ đó nghĩ tới dắt tay, sờ chạm, rồi cuối cùng là sự kết hợp hướng tới tình dục”. (Theo cuốn “Thế giới Phật giáo Tạng truyền” của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 do Trần Cầm Phú dịch, Công ty hữu hạn sự nghiệp văn hóa Lập Tự ấn hành đợt 8 bản thứ nhất tháng 10/1993, trang 100).

[8] Mùa đông năm 1938, có một vị Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền tên là Canh Đôn Quần Bồi (Gedun Chopel 1905-1951) đã viết cuốn sách “Dục kinh của Tây Tạng”, trong đó dùng nhiều chương để giới thiệu ái dục nam nữ. (Bản tiếng Trung dịch từ bản tiếng Anh Tibetan Arts of Love của Jeffery Hopkins). Theo lời của dịch giả Jeffery Hopkins thì “Dục kinh Tây Tạng” chủ yếu lấy đề tài từ cuốn “Ái kinh – Kama Sutra” nổi tiếng của Ấn Độ. Theo phần giới thiệu tóm tắt của “Dục kinh Tây Tạng” thì: “Sách của ông ta đã trình bày chi tiết 64 thức nghệ thuật tình dục, chia thành 8 loại trò chơi ái tình – ôm ấp, hôn hít, nắn bóp, cắn, di động cắm rút ra vào, âm thanh rên rỉ, chuyển hoán vai trò, tư thế giao hoan. Tiêu điểm của nó cho biết hỷ lạc tình dục là một pháp môn về kinh nghiệm tâm linh để tương thông với căn bản Tự tính”. (Xem lời tựa bản tiếng Trung của “Dục kinh Tây Tạng”, tác giả Canh Đôn Quần Bồi, Trần Cầm Phú dịch sang tiếng Trung, Đại Lạt xuất bản, in lần thứ 10 bản thứ nhất tháng 12/2003, trang 6).

Ngoài ra, theo thủy tổ Liên Hoa Sinh của Phật giáo Tạng truyền, về chuyện Song thân pháp có những động tác hỗ trợ và yếu quyết trước khi quan hệ tình dục 64 thức, xem chi tiết tại Phụ lục 10.

[9] Phật giáo ở thế giới Ta Bà này, hơn 2000 năm trước sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở nhân gian mới có Phật giáo thực sự lưu truyền cho hậu thế, nhưng trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Phật pháp thì đã có phương pháp tu hành của Tính lực phái Tantra, được Phật giáo Tạng truyền tôn thờ là mục tiêu truy cầu cuối cùng. Hiển nhiên, Yoga Tantra của Phật giáo Tạng truyền không phải là nội dung của Phật pháp, bởi khi đó Phật pháp vẫn chưa được lưu truyền.

[10] Bản chất của Yoga Tantra (tình dục Tantra) kỳ thực chính là kỹ thuật dâm lạc thế gian mà thôi. Nó không có liên quan gì đến Phật pháp, nhưng mọi người lại nghĩ rằng nó là nội dung của Phật pháp.

[11] Về sự kiện Lạt Ma ở khu vực Âu Mỹ vì chăm chỉ tu luyện Song thân pháp mà mắc bệnh HIV và tử vong, xin xem chi tiết các tin bài phía sau của sách này.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 7966


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg