The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  VII. LỜI KẾT

 VII. LI KT

 

Khi Thế Tôn thành Phật, nhận thấy chúng sinh ở đất này khó độ, nên muốn thủ chứng Niết Bàn, đó là vì đạo thành Phật vô cùng khó tuyên thuyết, chúng sinh vô cùng khó mà tin theo. Sau đó, nhờ có Đại Phạm Thiên ra sức thỉnh cầu, thì Thế Tôn mới lưu lại nhân gian, nhưng không thể không nghĩ đến việc nên làm thế nào để thuyết pháp cho chúng sinh, cho nên đã quan sát chư Phật đời quá khứ đã lợi lạc chúng sinh như thế nào, cuối cùng mới bày đặt ra thuyết pháp Tam hội, từ nông đến sâu, lần lượt phương tiện dẫn dắt chúng sinh vào pháp liễu nghĩa Đại thừa. Đầu tiên, Thế Tôn nói về sự tu chứng Niết Bàn để chúng đệ tử có thể giải thoát khỏi sinh tử, sinh khởi đại tín. Tiếp đến, Thế Tôn tuyên giảng về Trung đạo Bát Nhã, khiến các đệ tử chứng biết được Chân Tướng của Pháp giới, khiến họ hiểu rằng giải thoát (trước đây mà họ chứng được) không có nghĩa là thân chứng Thực Tướng Pháp giới. Cuối cùng, Thế Tôn mới tuyên thuyết về Phương Quảng Duy Thức giáo, khiến cho (thánh đệ tử) hiểu biết được nội hàm của Nhất thiết Chủng trí mà đạo thành Phật dựa vào, để họ tiến tu Vô sinh Pháp nhẫn ở chư địa, cuối cùng thành tựu Phật đạo. Đó là quá trình lần lượt có thứ tự dẫn dắt người học Phật vào trong giáo pháp Đại thừa, cuối cùng viên thành Phật đạo. Đây chính là nguồn gốc của Tiệm giáo vậy. (trích từ “A Hàm chính nghĩa” của Đạo sư Bình Thực, tập 1, trang 106, NXB Chính Trí ấn hành).

Các Pháp nghĩa mà kinh Tứ A Hàm nói đến lấy Nhị thừa Bồ Đề làm chính. Nhị thừa Bồ Đề tức là pháp nghĩa của đạo Giải thoát, chuyên thuật về pháp nghĩa đạo Giải thoát để thoát khỏi phân đoạn sinh tử, không có nội hàm về thực chứng Thực Tướng của pháp giới vạn pháp, cho nên nó không có quan hệ trực tiếp với đạo Phật Bồ Đề trong đạo thành Phật, bởi vì đạo thành Phật là phải bắt đầu từ thân chứng thức thứ 8 Như Lai Tạng cội nguồn của vạn pháp.

Pháp nghĩa của các kinh Đại thừa mà Phật giảng trong thời kỳ Nhị chuyển pháp luân, Tam chuyển pháp luân là lấy đạo thành Phật làm chính. Đạo thành Phật của Đại thừa thì lấy trí tuệ Phật Bồ Đề làm chính, lại bao hàm cả đạo Giải thoát của Nhị thừa Bồ Đề. Do nên đạo thành Phật Đại thừa không chỉ có tu chứng Tổng tướng trí, Biệt tướng trí Bát Nhã Thực Tướng nói đến trong các kinh dòng Bát Nhã thuộc Nhị chuyển pháp luân, mà hơn nữa còn phải cầu chứng Nhất Thiết Chủng trí tăng thượng tuệ học. Bát Nhã thì phải bắt đầu từ thân chứng Như Lai Tạng, dựa vào Như Lai Tạng đã chứng được mới có thể hiện quan nghĩa lý Thực Tướng Trung đạo của Như Lai Tạng. Còn Nhất Thiết Chủng trí tăng thượng tuệ học chính là diệu nghĩa Tự tính Như Lai Tạng nói trong các kinh thuộc dòng Tam chuyển pháp luân và lấy tăng thượng tuệ học như Nhất thiết Chủng tử mà Như Lai Tạng hàm chứa làm gốc. Vì đã thân chứng đầy đủ Nhất thiết Chủng tử hàm chứa trong Tâm thể Như Lai Tạng cội nguồn của vạn pháp, cho nên gọi là viên mãn thành tựu Nhất Thiết Chủng trí, tức là thành Phật.

Như vậy, tổng hợp cả trí tuệ Đạo Giải thoát, Tổng tướng trí Bát Nhã, Biệt tướng trí Bát Nhã và trí tuệ của Nhất Thiết Chủng trí mới có thể gọi là đạo thành Phật, chứ không phải như một số pháp sư, học giả chỉ coi đạo Giải thoát của Nhị thừa Bồ Đề gọi là đạo thành Phật được đâu. Nếu không thì tất cả mọi La Hán lẽ ra cũng đều đã thành Phật cả rồi! Thế nhưng chúng ta quan sát đều thấy tất cả các vị La Hán đều không phải là Phật, cũng chẳng có một vị La Hán nào dám tự xưng mình đã thành Phật sau khi Phật Thế Tôn nhập diệt. Do đó, nên biết rằng đạo thành Phật đã bao gồm cả đạo Giải thoát của Nhị Thừa Bồ Đề, cũng hàm chứa cả các trí tuệ như Tổng tướng trí Bát Nhã, Biệt tướng trí Bát Nhã và Nhất Thiết Chủng trí không có trong Nhị thừa của Biệt giáo Đại thừa. Có đầy đủ những trí tuệ như thế mới gọi là thành Phật. (trích từ “A Hàm chính nghĩa” của Đạo sư Bình Thực, lời tựa, trang 3-4, NXB Chính Trí ấn hành).

Sau khi bạn đem chính tri chính kiến và thực tế của đạo Phật Bồ Đề và đạo Giải thoát tiến hành thân chứng và quán thông, thì bạn đã hiểu rất rõ nội hàm và thứ tự của Phật pháp rồi. Từ đó trở đi, pháp này thông với pháp kia, pháp kia thông với pháp này, các pháp hỗ thông với nhau. Có một câu ngạn ngữ Đài Loan nói rằng: “Nhất lý thông, vạn lý triệt”, chính là nói ý này vậy. Như thế mới là công đức thân chứng Phật pháp. Sau khi bạn đã thực chứng Phật pháp, xuất thế hoằng dương hai đạo chủ yếu này - tức đạo Phật Bồ Đề và đạo Giải thoát, sẽ hoàn toàn dựa vào chỉ ý chân thực của Phật Đà để hoằng dương. Việc bố thí Phật pháp như thế mới có thể gọi là bố thí pháp Cam Lộ chân chính. (trích từ “Cam lộ pháp vũ” của Đạo sư Bình Thực, trang 60, do Hội đồng tu Chính giác Phật giáo ấn hành).

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 9292


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg