The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  1. Không hiểu rõ pháp Thập bát giới của Phật pháp cơ bản.

1. Không hiểu rõ pháp Thập bát giới của Phật pháp cơ bản.

 

Thập bát giới là gồm Lục căn, Lục trần, Lục thức, điều này mọi người đều biết rõ. Tuy nhiên, các bậc đại sư không hiểu rõ về Ý căn, đa phần đều cho rằng đại não chính là Ý căn, từ đó mà sinh ra các loại tà kiến. Tại sao lại nói rằng đại não không phải là Ý căn? Là vì Phật đã từng khai thị rằng Ý căn có thể đi đến kiếp sau, cho nên đại não đương nhiên không thể nào là Ý căn. Nay lấy kinh Phật ra để làm bằng chứng như sau: Kinh “Tạp A Hàm” quyển thứ 14 (“Đại Chính Tạng” kinh số360) viết: “…Khi ấy, Thế Tôn mới nói cho các vị tỳ kheo biết: ‘nếu tư lượng, nếu vọng tưởng, thì có Thức sử phan duyên trú. Vì có Thức phan duyên trú, nhập vào danh sắc. Vì nhập danh sắc, nên có sinh lão bệnh tử ưu bi não khổ đời vị lai, như thế thuần đại khổ tụ tập…’.” Phiên dịch diễn nôm như sau: “Nếu như có tính tư lượng (tức là tính làm chủ thẩm đoán) bất diệt, nếu như có hư vọng tưởng bất diệt, thì sẽ có thức thứ tám kiết sử phan duyên tồn tại. Bởi vì lý do có sự tồn tại của thức thứ tám có kiết sử phan duyên này, cho nên nó mới đi vào trong Danh Sắc trong thai mẹ. Vì vào trong Danh Sắc trong thai mẹ, nên mới có sinh lão bệnh tử ưu bi não khổ…ở đời sau”.

 

Vì sao tôi nói cái Thức trong “có Thức phan duyên trú” nó là thức thứ 8? Đó là vì Phật nói rằng Thức này nhập vào thai mẹ, tồn tại (thường trú) ở trong Danh Sắc, vì trứng thụ tinh và Ý căn lúc nhập vào thai mẹ gọi là Danh Sắc. Khi nhập vào thai mẹ, tức là có Thức này nhập vào trong Danh Sắc, mà trong “Danh” lúc này còn chưa có 6 thức đầu tiên[1], cho nên “Danh” lúc này duy chỉ là Ý căn. Còn “Sắc” lúc này chỉ là trứng thụ tinh, chỉ là tế bào đơn chưa phân chia. “Danh” nhiếp tại tâm, không phải là Hữu sắc căn, cho nên Ý căn ở đây là Tâm. Lục thức lúc chết ở đời trước đã bị hủy diệt hoàn toàn, không thể di chuyển đến đời sau được, cho nên chúng ta nên hiểu rằng cái “Danh trong Danh Sắc” mà “Thức” nhập trú vào duy chỉ là Ý căn mà thôi. Ý căn là Tâm, không phải là Hữu sắc căn. “Danh” đã là Ý căn thức thứ 7 rồi, thì cái có thể trì giữ “Danh” chắc chắn phải là thức thứ 8, vì lúc này 6 thức đầu vẫn chưa được sinh ra. Nếu như cho rằng cái “Danh” của Ý căn tại thời khắc này mà là đại não thì tức là trái với sự thực. Nếu nói rằng khi chúng ta nhập thai mẹ chỉ có Sắc mà không có Danh thì trái ngược với những gì mà Phật nói trong kinh Tứ A Hàm, vì Phật đã khai thị rằng tại thời điểm đó Danh và Sắc đều đã có đầy đủ cả. Cho nên mới nói Ý căn là Tâm, không phải là đại não, bởi đại não không thể tồn tại mà truyền đến đời sau được.

 

Vì thế, trong kinh A Hàm, Phật nói rất chính xác, đã chứng thực có thức thứ 7 Ý căn và thức thứ 8 là cái Thức mà trì giữ Danh Sắc, tức là đã có đầy đủ 8 thức, không phải như các vị đại sư xây dựng thêm (tự nhào nặn, bày đặt) nên “Ý thức tế tâm” ngoài Thập bát giới, lấy đó làm cái sợi dây liên kết sinh tử luân hồi nhân quả giữa đời trước với đời sau. Cũng không cần bọn họ nói những điều ngoài lời Phật nói, lập riêng cái gọi là Ý thức tế tâm làm Bản Tế của Niết Bàn, vì Phật đã nói rằng “Ý thức dựa vào Ý căn mà có (sinh ra), không phải là cái Tâm vốn dĩ đã tự có”. Phật còn khai thị rằng “Ý thức nếu còn đang tồn tại, thì (hành giả) không thể nhập vào Vô dư Niết Bàn được”. Phật cũng nói rằng “Cái mức độ nhỏ nhất của Ý thức không gì vượt qua nổi cái Ý thức trong Phi tưởng Phi phi tưởng định, nếu như cái Tâm này không vĩnh viễn mất đi thì không thể khiến cho Ý căn và Thức thứ 8 xả thọ để nhập thai”. Cho nên, các vị đại sư lập riêng ra cái Ý thức tế tâm, coi đó là Niết Bàn Thực Tế, là sợi dây kết nối sinh tử giữa kiếp trước và kiếp sau, đó đều là vọng thuyết (nói bừa) cả. Cái nguyên nhân tạo ra vọng thuyết như vậy, khởi nguồn chính là do những người như Nguyệt Xứng, Tịch Thiên ở Thiên Trúc[2] (Ấn Độ) xưa không hiểu rõ về nội dung của pháp Thập bát giới trong kinh A Hàm, nên mới sáng lập ra tà kiến Trung quán phái Ứng Thành. Những người đời sau bị học thuyết tà kiến của họ mê hoặc, cho nên đã cực lực phủ định hai thức thứ 7 và thức thứ 8, lại tiếp tục lập riêng cái gọi là tế tâm Ý thức để tuyên truyền rộng rãi, điều này không chỉ trái giáo mà còn bội lý[3], không có điểm nào đáng chấp nhận. (trích từ “Tông thông và Thuyết thông” của Đạo sư Bình Thực, trang 228-230, NXB Chính Trí ấn hành).

 

 

 

[1] Chú thích của dịch giả: Sáu thức đầu là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Khi mới nhập thai thì 6 thức này còn chưa sinh ra.

 

[2] Chú thích của dịch giả: “Thiên Trúc” là chỉ nước Ấn Độ xưa. Nguyên Ấn Độ cổ gọi là Hindu, người Hán dịch chữ Hindu này, đã dùng hai chữ “Thiên Trúc”, nghe khác âm ngày nay, là vì khi ấy phụ âm đầu đ- còn chưa được biến đổi thành âm tr- như bây giờ. Thời Bồ Tát Huyền Trang dịch kinh, chữ Trúc còn đang đọc là Độc.

 

[3] Chú thích của dịch giả: “Trái giáo bội lý” là trái ngược với nội dung thánh giáo lượng trong kinh Phật và trái ngược với sự thực chân lý.

 

 

Bài trước

 

Bài sau

 

Trang chủ

 

Lượt xem trang: 9288


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg