The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  5. Môn đạo tu hành cấp bậc khác nhau

 5. Môn đạo tu hành cp bc khác nhau

Người muốn thành Phật đạo thì phải tu chứng Đạo Phật Bồ Đề và Đạo Giải thoát. Người chứng được Đạo Giải thoát cốt ở việc đoạn trừ được các phiền não như Ngã kiến và Ngã chấp, không vì nhờ pháp quán tưởng thành Phật mà thành tựu. Người chứng được Đạo Phật Bồ Đề cốt ở việc chứng được thức thứ 8 Như Lai Tạng, nhờ đó mà sinh khởi ra Tổng tướng trí Bát Nhã, lại nhờ Tổng tướng trí Bát Nhã mà tiến tu Biệt tướng trí Bát Nhã. Nhờ việc thông đạt Biệt tướng trí Bát Nhã mà có thể tiếp tục tiến tu Nhất Thiết Chủng trí. Giai đoạn trước khi chứng được Nhất Thiết Chủng trí gọi là Đạo Chủng trí, tức là trí tuệ Bát Nhã của bậc Bồ Tát địa thượng[1]. Nếu tu chứng được đầy đủ Nhất Thiết Chủng trí của Bát Nhã tức là thành Phật đạo cứu cánh (Phật quả cuối cùng). Như thế có thể giành được Tam thân cụ túc viên mãn. Nội hàm thứ tự tiến tu như thế, mới là đạo thành Phật chân chính. (trích từ “Cuồng mật và Chân mật” của Đạo sư Bình Thực, tập 1, trang 91, NXB Chính Trí ấn hành).

Thiền Thanh Văn là bắt đầu từ việc hiện quan Ngũ uẩn, Lục nhập, Thập nhị xứ, Thập bát giới hư vọng, tức là bắt đầu bằng việc quán hành Không tướng của Uẩn, Xứ, Giới, Từ đó mà phân chứng Sơ quả cho đến Tứ quả, đoạn tận Ngã kiến, Ngã chấp mà nhập Vô dư Niết Bàn. Tuy nhiên, Bồ Tát thông giáo Đại thừa cũng có phân chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả (chi tiết xem “Đại Bát Niết Bàn kinh”, quyển 36). Bồ Tát biệt giáo thì dùng phương thức tham thiền để tìm được Như Lai Tạng, tức là bắt đầu từ xúc chứng Như Lai Tàng Thức, sau đó dựa vào thể tính của Không tính Như Lai Tạng đã chứng được để phản quan Ngũ uẩn, Lục nhập, Thập nhị xứ, Thập bát giới của tất thảy chúng sinh hữu tình (gồm mình và kẻ khác) đều là hư vọng, cũng có nghĩa là sau khi tìm được Không tính Như Lai Tạng, phản quan tất thảy vạn pháp mà Như Lai Tạng hiển hiện ra là Không tướng, là hư vọng, từ đó mà đoạn Ngã kiến và Ngã chấp, chứng được các thánh quả từ Sơ quả đến Tứ quả của Thanh Văn giáo và Thông giáo. (trích từ “Nhãn kiến Phật tính” của Cư sĩ Chính Quang, trang 78-79, Hội đồng tu Chính giác Phật giáo ấn hành).

Vô ngã quan của Đại thừa khác với vô ngã quan của Nhị thừa. Một cái là nhân vô ngã quan, pháp vô ngã quan có được từ việc tu chứng Thực Tướng pháp giới, sau đó quay trở lại quan sát cái vô thường, vô ngã, duyên khởi tính không của Ngũ âm, Thập nhị xứ, Thập bát giới của chúng ta. Còn những người tu Nhị thừa chỉ có thể quan sát duyên khởi tính không và vô ngã từ Ngũ âm, Thập nhị xứ, Thập bát giới, họ không thể quan sát được vô ngã quan của Thực Tướng pháp giới, cũng không thể tiến hành hiện quan thâm sâu dựa trên pháp vô ngã của Uẩn Xứ Giới. Cho nên, vô ngã quan của Đại thừa có đầy đủ hiện quan nhân vô ngã và pháp vô ngã, bao gồm cả Thế tục đế và Thắng nghĩa đế của Thực Tướng pháp giới. Vô ngã quan của Nhị thừa chỉ có thể quán hành, thực hành quán hành nhân vô ngã trên phương diện Ngũ âm, Thập nhị xứ, Thập bát giới của thế giới hiện tượng, hoặc (cùng lắm) là thực hiện quán hành cái thô tướng trong pháp vô ngã của Uẩn Xứ Giới, nhưng mãi mãi không thể chạm được đến Tâm Thực Tướng của pháp giới, không thể chạm đến Đệ nhất Nghĩa đế. Đây chính là sự khác biệt lớn nhất về vô ngã quan mà Đại thừa và Nhị thừa thực hiện.

Cho nên La Hán Nhị thừa chỉ có thể chứng được quả vị giải thoát, không thể nào đạt được quả vị Đại Bồ Đề. Họ chỉ có thể đạt được đến Thanh Văn Bồ Đề và Duyên Giác Bồ Đề, cái chứng được chỉ là quả vị giải thoát. Còn sự tu hành của pháp Đại thừa, đến cuối cùng, không những chứng được quả vị giải thoát của Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề mà thánh nhân Nhị thừa chứng được, mà còn tu chứng được quả vị Đại Bồ Đề ở Phật địa. Đây là chỗ khác biệt khi tu chứng pháp vô ngã của Đại thừa và Nhị thừa Bồ Đề. (trích từ “Đại thừa vô ngã quan” của Đạo sư Bình Thực, trang 60-61, do Hội đồng tu Chính giác Phật giáo ấn hành).

Cho nên, Phật pháp có thể khái quát thành hai loại lớn: Thứ nhất là trí tuệ của đạo Giải thoát, thứ hai là Vô sinh nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn của Đại thừa, cũng chính là trí tuệ Chân Như và Phật tính. Mà cái trí tuệ của Chân Như và Phật tính lại chia thành 2 phần: Một là, về mặt Tổng tướng và Biệt tướng, nói về Bát Nhã Không trong Nhị chuyển pháp môn. Bát Nhã Không là nói về “Chân Tâm Không tính”, chứ không phải là nói về “Không tướng trong Uẩn Xứ Giới”. Hai là, khi đến thời kỳ Tam chuyển pháp luân, lại từ Biệt tướng nói về Nhất Thiết Chủng trí, cũng chính là Minh môn bách pháp, Thiên pháp, Vạn ức pháp của Duy Thức, là những kinh điển của hệ (dòng) Như Lai Tạng. Đó là Pháp trong Tam chuyển pháp luân. Khi tu học Pháp trong Tam chuyển pháp luân, nó có thể giúp bạn từ phá tham Minh Tâm ở Thất trụ vị, tiến vào Sơ địa, có thể hoàn thành trong một đời. Cái này bao gồm cả đạo Giải thoát của pháp Nhị thừa bên trong, mà Đại thừa Bồ Đề này không phải là thứ mà những người tu theo pháp Nhị thừa có thể biết được. Chỉ có pháp Đại thừa mới có, không bao gồm pháp Nhị thừa cho nên mới gọi là Biệt giáo.

Nói tóm lại, đạo Phật Bồ Đề và đạo Giải thoát chính là toàn bộ Phật pháp. Đạo Giải thoát nếu như có nhân duyên, nếu tu hành chăm chỉ tinh tấn từ 1 đến 4 đời thì có thể viên chứng. Còn đạo Phật Bồ Đề thì sao? Cần phải trải qua 3 đại vô lượng số kiếp (3 đại a tăng kỳ kiếp) mới có thể viên thành. Cho nên đạo Phật Bồ Đề đã thâm sâu lại càng thâm sâu, có thể nói là chúng sinh bình thường rất rất ít cơ hội được nghe đến, chứ đừng nói nói tu chứng được. (trích từ “Tà kiến và Phật pháp” của Đạo sư Bình Thực, trang 5-6, Hội đồng tu Chính giác Phật giáo ấn hành).

 


[1] Chú thích của dịch giả: Nói Bồ Tát chư địa hoặc Bồ Tát địa thượng, là chỉ các vị Bồ Tát đang ở các quả vị thuộc Thập địa.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 9282


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg