The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 7: Sự phán luận đối với pháp nghĩa của Mật tông -3

 Như vậy, Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông là pháp hư tướng mà Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma và Tông Khách Ba tôn sùng, nó đọa vào trong tà kiến duyên khởi tính không của Vô nhân luận, khác xa so với “duyên khởi tính không lấy Như Lai Tạng làm Nhân” mà Phật hoằng truyền. Sự sai lầm nghiêm trọng như thế, phàm là người học Phật giáo chúng ta đều phải nên biết rõ. Các đại đức, trụ trì, pháp sư, cư sĩ của tất cả các tông phái Phật giáo đều không nên có thái độ nhìn mà không thấy, đều phải nắm tay nhau đứng dậy, tăng cường biện chính, phá hủy tà kiến đó, khiến cho sự hoằng truyền của pháp nghĩa Phật giáo được quay trở về đúng với ý chỉ thực sự trong các kinh Tam thừa, thì đó mới là đại hạnh đại phúc của tất thảy người học Phật giáo hôm nay và mai sau vậy! mới là cái phúc may của hữu tình cõi Ta Bà này vậy! Nếu quả có thể làm được như thế, thì cũng có thể làm giảm nhẹ bớt được quả báo thuần khổ cực nặng trong vô lượng kiếp sau của Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma và đông đảo tín chúng – tuy nhiên các nơi thụ báo đời sau như địa ngục và các thế giới như Cực Lạc mà bản thân Ấn Thuận và các tín đồ của ông ta không tin là có ấy, quả báo thế giới Cực Lạc và quả báo địa ngục đó tuyệt đối sẽ không vì sự không tin của thày trò Ấn Thuận và những người như Đạt Lai Lạt Ma mà trở nên không có thực.

Lại nữa, tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành Mật tông mà Ấn Thuận ủng hộ và quảng truyền – hoằng dương Trung Quán phái Hư Tướng mà phủ nhận pháp Như Lai Tạng của Trung Quán Thực Tướng, duy chỉ thừa nhận có sáu thức, không chịu thừa nhận thức thứ bảy Ý căn và Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật quảng thuyết trong các kinh Tứ A Hàm, tất sẽ trợ sức cho pháp nghĩa dâm dục vi đạo của Mật tông được lưu hành rộng rãi, khiến cho tà kiến, tà pháp đó của Mật tông có được không gian sinh tồn. Vì sao vậy? Vì đã không còn thức thứ bảy và Thức thứ tám thì chỉ còn lại có sáu thức. Trong sáu thức đó thì lấy Ý thức làm chủ, mà tâm tính của ý thức giác tri lại rất tương ứng với pháp môn dâm xúc nam nữ dâm dục vi đạo của Mật tông, cho nên khiến cho pháp tu song thân nam nữ của Mật tông tiếp tục có được không gian tồn tại.

Những người quảng truyền Trung Quán kiến của pháp hư tướng phái Ứng Thành thực sự là chuẩn bị sẵn không gian sinh tồn cho tà pháp của Mật tông Tây Tạng, còn những kẻ như thày trò Ấn Thuận lại cực lực biện hộ cho pháp hư tướng của Trung Quán kiến phái Ứng Thành Mật tông, đồng thời cả đời ra sức hoằng dương nó, tuyệt không nhận sai. Vì thế mà Mật tông mới có thể tiếp tục tồn tại, tiếp tục hấp thu lấy nguồn tài nguyên của Hiển giáo, làm lớn mạnh pháp môn tà kiến ngoại đạo của mình. Những hành vi như thế của thày trò Ấn Thuận quả thực là rước voi về dày mả tổ, thật đúng là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà. Hành vi làm tổn hại nghiêm trọng đến gốc rễ của Phật giáo như thế, vậy mà tứ đại pháp sư và các cư sĩ giới Phật giáo tự nhận là những người có trí có tuệ lại ngang nhiên tiếp tục biện hộ cho tà tư, tà thuyết của Ấn Thuận, ra sức ủng hộ, hoằng truyền mạnh mẽ, thật đúng là đại bi ai của người học Phật giáo thời mạt pháp vậy!

Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông nếu không tiêu diệt, thì tà pháp dâm dục vi đạo sau cùng sẽ tiếp tục được tồn tại trong “Phật giáo Mật tông”. Vì nó tiếp tục tồn tại trong Mật tông, lại được những người như Ấn Thuận, Thánh Nghiêm, Tinh Vân…luôn nhận định Mật giáo cũng là Phật giáo, thì Song thân pháp tà dâm của Tây Mật cuối cùng sẽ lại được truyền bá trong Hiển giáo, trong đời tương lai sẽ lại dẫn đến việc hai chúng xuất gia tin theo mà thực tu Song thân pháp, thì Mật tông sẽ tiếp tục trở thành đại họa của Phật giáo trong tương lai.

Tôi tuy ra sức đả phá Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông, đem tà thuyết hoang đường của họ phơi bày hết ra ngoài, nhưng tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành nếu vẫn dựa vào thư tịch mà tiếp tục được tồn tại ở nhân gian, thì rốt cuộc vẫn có người tiếp tục tin theo, không thể nào tiêu diệt nó mãi mãi được, vì thế giới Ta Bà chắc chắn vẫn mãi có chúng sinh ngu si vô trí tuệ tiếp tục tin theo pháp ấy. Cho nên, Mật tông vẫn sẽ tiếp tục cầu mong được sinh tồn dưới vẻ bề ngoài của Phật giáo, họ sẽ vẫn tiếp tục thổi phồng chứng lượng của mình bằng các danh tướng quả vị của Phật giáo, qua đó để trùm đầu những người học Phật giáo đời sau, rồi lại tiếp tục hút lấy tài nguyên Phật giáo, dựa vào sức mạnh vận hành của nguồn tài nguyên này để tiêu diệt Phật giáo từ bản chất, rốt cuộc vẫn trở thành kẻ đại diện cuối cùng của Phật giáo, sẽ lại trở thành kẻ chiếm ngôi Phật giáo. Câu chuyện Phật giáo Thiên Trúc năm xưa bị Mật tông dùng kế mận thay đào chết sẽ vẫn tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc, Đài Loan thậm chí trên toàn thế giới ngày nay, thì Phật giáo sẽ lại tuyên cáo diệt vong hoàn toàn, không còn có cách nào duy trì được đến ngày Bồ Tát Nguyệt Quang giáng sinh ở nhân gian nữa.

Vì sao tôi lại nói những lời này? Đó là vì thày trò Ấn Thuận dốc sức ủng hộ cho Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông, phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật thuyết, thì tất sẽ khiến cho chính pháp khó mà hoằng dương được. Ấn Thuận còn phủ nhận sự thực Mật tông soán ngôi chính thống của Phật giáo, nay còn thừa nhận Mật tông là tông phái thực sự của Phật giáo nữa, hết lòng ủng hộ cho Mật tông. Những hành vi như thế đã giúp trước cho pháp môn tà dâm của Mật tông có được địa vị hợp pháp trong giới Phật giáo, vì nó tương ứng với Ý thức, không cần tu chứng thức thứ bảy, Thức thứ tám nữa, bởi chỉ cần lấy tư duy tất thảy pháp không mà Ấn Thuận ức tưởng ra để làm thực chứng Bát Nhã Không. Ấn Thuận giúp Tây Mật có được không gian sinh tồn xong, sau đó thì có pháp sư Tinh Vân thừa nhận Tây Mật tà dâm là tông phái chính thống của Phật giáo, lại còn có những người như Hội trưởng Hội Phật giáo Trung Quốc (của Đài Loan) Tịnh Tâm, trưởng lão Tịnh Lương…mời Đạt Lai Lạt Ma của Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng đến Đài Loan hoằng dương pháp ngoại đạo của Mật tông đầy tà dâm, tà kiến nữa. Pháp sư Thánh Nghiêm thì lại bám duyên với Đạt Lai Lạt Ma để tự tuyên truyền cho mình, trợ ích cho Mật tông Tây Tạng tà dâm đặt nền móng địa vị hợp pháp trong giới Phật giáo toàn cầu.

Vì duyên cớ này, nó đã khiến cho các pháp sư xuất gia không đủ chính tri chính kiến ở Đài Loan phổ biến thừa nhận Mật tông là Phật giáo chính thống. Chính vì thế mà thời nay đã có một số người xuất gia của giới Phật giáo Đài Loan bắt đầu tu học mật pháp của Tây Tạng, dẫn đến hiện nay ở Đài Loan, số lượng các pháp sư Phật giáo vì để tu tập mật pháp Tây Tạng mà đặt mua tượng đồng khỏa thân dâm hợp song thân “Phổ Hiền Vương Như Lai” tăng lên rõ rệt. Có thể thấy rằng có rất nhiều người xuất gia đã bắt đầu tin theo Song thân pháp của Mật tông và tu học, hy vọng dựa vào pháp tu dâm dục của Mật tông này để có thể tu thành “Phật cứu cánh” trong một đời, qua đó có thể dùng thân xuất gia để hành pháp của người tại gia, thậm chí dựa vào Mật pháp để duy trì được cuộc sống dâm lạc với rất nhiều phụ nữ. Chính vì vậy, sau này nếu tiếp tục có pháp sư trụ trì tự viện Phật giáo kiêm truyền Mật pháp nào xảy ra xì căng đan tình dục và bị đưa tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng, thì tôi sẽ chẳng lấy làm bất ngờ trước vụ việc đó, vì Mật pháp Tạng truyền vốn dĩ là lấy việc truy cầu cảnh giới Đệ tứ hỷ dâm lạc làm tư tưởng nòng cốt; sự tu chứng quả vị Bồ Tát và tu chứng pháp môn thành Phật của Tạng Mật bắt đầu ngay từ Bình quán đã lấy Đệ tứ hỷ dâm lạc của Song thân pháp làm mục đích cho sự tu chứng của họ, bởi pháp tu Tạng Mật vốn dĩ lấy cảnh giới dâm lạc quán xuyến từ đầu đến cuối mà.

Các pháp sư tu trì pháp môn của Tạng Mật trong Phật giáo toàn cầu hiện nay cần đặc biệt lưu ý đề phòng: Thường có người thế tục mạo nhận là tín đồ Phật giáo, bề ngoài như người hết mực thành tâm, đến các đạo tràng truyền thụ pháp môn Tạng Mật để cầu pháp, đều cúng dường thượng sư và thụ quán đỉnh như pháp, khiến cho pháp sư truyền thụ Mật pháp không cảm thấy anh/chị ta có ý đồ riêng. Đợi khi pháp sư tin tưởng không chút nghi ngờ, sau đó bèn cầu thụ Mật quán. Sau khi thụ Mật quán thì thường lấy sắc thân cúng dường cho pháp sư truyền thụ Mật pháp, khiến cho pháp sư dần dà không còn tâm lý đề phòng, sau đó bèn tiến hành ghi hình trộm lúc hành dâm, rồi bỗng dưng có phối ngẫu (vợ/chồng) người đó xuất hiện uy hiếp, đòi bồi thường khoản tiền lớn. Nếu như pháp sư truyền thụ Mật pháp này tiếc món tiền lớn mà không tuân theo ý họ, thì sẽ bị công bố hành vi ô nhục đó, khiến cho hình ảnh Phật giáo bị tổn thương nghiêm trọng.

Phàm những hiện tượng này, nếu không bắt tay từ việc bác bỏ Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Tạng Mật do Ấn Thuận hoằng truyền, không bắt tay từ việc phá hủy pháp nghĩa tà trái hoang đường của Song thân pháp Mật tông, thì trong Phật giáo sau này nhất định sẽ lại tái diễn những vở kịch đó, chắc chắn lại tiếp tục không ngừng gây tổn hại đến Phật giáo, cho đến mãi mãi sau này nữa…, không ngừng tái diễn. Phàm tất cả các đại sư và người học xuất gia tại gia trong giới Phật giáo chúng ta đều nên đặc biệt lưu ý đề phòng việc này. Còn về pháp đối trị căn bản, thì phải tẩn xuất tà tri, tà kiến và pháp môn tà tu của Mật tông ra khỏi cửa Phật giáo, nếu không sẽ cực khó diệt trừ tận gốc hiện tượng làm tổn hại lâu dài đến Phật giáo này.

Còn như trong các tự viện “Phật giáo” nước Cập Kế Tân ở Thiên Trúc năm xưa và trong các tự viện “Phật giáo” Tây Tạng, Lạt Ma đêm đêm hành dâm với phụ nữ (chi tiết xem ví dụ nêu trong Chương 9 và các bài viết về Dâm dục vi đạo trong “Hoa Vũ Tập. 4” của Ấn Thuận), mà nói đó là pháp tu chứng tức thân thành Phật, nói là tinh tấn tu hành, là tinh tấn tu chứng thiền định Phật giáo, là tuân theo khai thị của Tông Khách Ba: “Mỗi ngày tinh tấn tu tám thời, tu cả tháng, tu cả năm, tu cả kiếp”, khiến cho hàng đêm ở các tự viện Mật tông Tây Tạng khi xưa tiếng kêu rên dâm đãng inh ỏi, đến mức còn có Lạt Ma làm cho phụ nữ sinh con cái, nhưng đại chúng đều coi là chuyện bình thường. Thậm chí Lạt Ma xuất gia và đệ tử thụ quán đỉnh thứ tư trong Hoàng giáo của Mật tông cùng với nữ nhân hành dâm tạp giao cùng giường (chi tiết xem nội dung trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba nói: Sau khi 9 vị Minh Phi hành dâm với thượng sư ở trong đàn thành, thì giao 9 Minh Phi này cho đệ tử cùng hành dâm, còn Lạt Ma thì đứng bên khai thị, hướng dẫn họ tu chứng Đệ tứ hỷ. Qua đó, nội tình của phái Hồng Bạch Hoa giáo, chỉ cần nghĩ cũng biết rồi), họ làm ô uế tự viện Phật giáo và hình tượng thuần tịnh của Phật giáo, nhưng lại coi đó là chuyện thường. Nếu như có ai đó nêu ra nghi vấn, thì bọn họ sẽ tự tin đáp rằng đó là họ tuân theo khai thị của Tông Khách Ba để tinh tấn tu hành đạo thành Phật. Như thế, cuối cùng sẽ khiến cho Phật giáo hoàn toàn bị chuyển biến thành Lạt Ma giáo, trở thành thứ tôn giáo có bản chất là Lạt Ma giáo, vì thế mà Phật giáo chính thức diệt vong, chỉ còn lại cái tên gọi “Phật giáo”, vẻ bề ngoài của tự viện Phật giáo và người xuất gia Hiển Mật tông mà thôi.

Tôi nói những lời này tuyệt đối không phải là để hù dọa ai cả, bởi có lời văn của thượng sư Mật tông làm chứng:

“Qua một năm, 31 tuổi, bế quan, một đêm không ngủ cho đến tận sáng sớm. Nhìn thấy đàn thành Thượng Lạc Kim Cương tiến hành tụ họp đại lạc (tổ chức hội đại chúng đồng hưởng dâm lạc). Đông phương Kim Cương Không Hành Mẫu màu lam, như người nữ ở nhân gian, tuổi chừng cập kê, tương tự với tuổi của Kim Cương Hách Lỗ Hát (ngang tầm tuổi), giao hợp ở tư thế bình thường. Nam phương Na Ma Không Hành Mẫu, tuổi 16, ngang tuổi với Tạp Bảo Hách Lỗ Hát, giao hợp ở tư thế cá thờn bơn (nằm nghiêng). Tây phương Không Hành Mẫu Đông Cát Ma, 20 tuổi, ngang tầm tuổi với Bất Đả Hách Lỗ Hát, giao hợp với tư thế súc sinh (kiểu chó). Bắc phương Không Hành Mẫu, 25 tuổi, ngang tuổi với Bảo Sinh Hách Lỗ Hát, giao hợp ở tư thế dựng chân gác lên vai. Các quyến thuộc khác có tư thế giao hợp đầy đủ khác nhau: có kiểu như người, có kiểu như thần. Duy có Chủ tôn Phật Phụ là hình Bản tôn trí tuệ: Thắng lạc luân màu trắng, bốn mặt mười hai tay, hai chân đứng xoạc cẳng (dạng háng), ôm ngoặc lấy đùi trái Phật từ bên chân phải Hợi mẫu, hôn môi, nói lời dâm tục. Mẫu nắm chùy, phụ bóp vú và liên, ra sức mà hành ở đại lạc chi phần (ra sức mà thực hành với những động tác cần làm để cầu vào được cái lạc Đệ tứ hỷ). Với phương thức dâm dục chủ bạn như thế, quan sát một lượt trong khoảng thời gian hơn một bữa ăn, cảm nhận lạc trí tăng trưởng rõ rệt. Lại nữa, đất này có hai người nữ: một người là Bành Thác Võng Mộc, người kia là Trạch Vãng Chá Mộc. Ngày mùng 10, hai người ấy đều đeo cốt sức trang nghiêm đến (đều đeo đầy trên người đồ trang sức làm bằng xương người chết mà đến). Sau khi cúng dường thượng sư, liền ôm Bành Thác Võng Mộc hành (ôm Bành Thác Võng Mộc mà làm tình). Cô ấy 30 tuổi, nhưng tướng mạo tựa như xử nữ (nhưng diện mạo như gái trinh), đó là tướng trí tuệ tăng trưởng. Khi cúng dường gia trì, thân cô ấy hiển hiện uy quang, tâm nhập trí cảnh rất lâu (người nữ ấy tâm trụ nhập vào trong cảnh giới “trí tuệ” của Đệ tứ hỷ dâm lạc rất lâu). Ta muốn phá trừ chấp trước của cô ấy, nhưng nàng vẫn như say như tỉnh. Trước khi món ăn thừa chưa bố thí đi, ca múa nhảy nhót, nói cười ỉ ôi. Sau đó thì thực sự khế nhập, mạch của nàng nhập chùy đạo (mạch Hải Loa của người nữ chui vào trong niệu đạo của người nam), khí tương hợp, lạc sướng không chịu nổi, kéo dài đến khoảng ba tiếng đồng hồ, hai bình rượu lớn đổ kềnh (uống sạch hai hũ rượu lớn). Nàng phát ra những âm thanh hoan lạc khác nhau, hình dung có nhiều biến thái, đó chính là ảo hiện của trò chơi Không Lạc. Trong đêm lại cùng hai người nữ đó và người hầu gái Thiêm Linh Chúc Mộc gác gối mà ngủ (đến đêm lại cùng hai nữ nhân đó và tỳ nữ cùng xếp gối lên nhau mà ngủ), giao hoán mà hành với hai người nữ (hành dâm đổi đi đổi lại với hai nữ nhân). Giữa chừng thì ăn đồ cúng (có lúc nghỉ ngơi ăn đồ cúng), cuồng khoảnh đại bạch (uống rượu điên cuồng đến cạn khô), lại giao sáu bảy lần (lại cùng hai người nữ đó giao hợp thêm sáu, bảy lần nữa). Trạch Vãng Chá Mộc có tham tướng cực tuyệt, trí tuệ cũng khế nhập vô nghi (đã chứng được “trí tuệ” Đệ tứ hỷ). Cuồng nhiệt hôn nàng, đút chọc mãnh liệt, bên nữ nhấp nhổm, mỗi người luân ngự 12 lần (luân lưu giao hợp với từng người, tổng cộng 12 lần). Chùy cương cứng như con lật đật (không đổ gục), lại cùng người hầu gái Thiêm Linh Chúc Mộc giao (lại giao hợp với tỳ nữ). Giao xong (sau khi cùng tỳ nữ làm tình xong), Trạch Vãng Chá Mộc lại mời mọc làm tiếp (Trạch Vãng Chá Mộc thỉnh cầu giao hợp với nàng tiếp), lại giao tiếp (cho nên lại giao hợp với nàng), thời gian kéo dài ba bốn tuần trà (thời gian làm tình lần này kéo dài khoảng ba đến bốn lần pha tra). Trạch Vãng Chá Mộc lại thỉnh cầu phóng Minh điểm (Trạch Vãng Chá Mộc cầu xin xuất tinh cho nàng), vì thế trào ra chút chút (do đó mà xuất tinh một chút). Ta vẫn đề thăng (sau khi xuất tinh, phần tinh dịch còn lại mà bên nữ vẫn chưa thể nâng lên thì ta vẫn nâng lên thu về), đại lạc bất diệt, cuồng ẩm 30 bình rượu không say, tận lực xốc chùy không đổ. Tiếp tục cố gắng, đến tận khi trời sáng, hoặc chủ (nữ chủ nhân) hoặc bộc (tỳ nữ), liên chùy không từng gián đoạn chia li….” (34-619~620).


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg