The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  CHƯƠNG 17: TỔNG KẾT Tiết 1: Nghĩa lý Kim Cương thừa của Mật tông -2

 Lại nữa, quả vị mà Mật giáo chứng được như thế này: “Hành giả quán tưởng chữ Hồng giữa tâm mình phóng quang tiêu trừ tội nghiệp ma chướng của chúng sinh lục đạo, rồi sau đó chú luân giữa tâm mình xoay sang trái phóng quang, dưới thứ ánh sáng này, tất thảy chúng sinh đều thành Kháp Giác, dù là một con kiến cũng là hóa thân của Kháp Giác, không phải là của Kháp Giác thì không có. Tất thảy mọi khí vật cũng biến thành cung điện của Kháp Giác. Nhưng loại cảnh giới này buộc phải đích thân tu tập nó mới đến. Nếu không tu tập, thì quyết không thể có. Đích thân tu tập tự nhiên rõ ràng sẽ đến. Mà phải tu tập 10 năm mới có thể thành. Nếu chỉ tu 1, 2 năm thì quyết không thể thành tựu. Bởi vì việc nhìn nhận chúng sinh thành hóa thân của Kháp Giác, nhìn khí vật thành cung điện Kháp Giác đều không phải là chuyện dễ, nếu không tu tập nhiều năm thì không thể đạt đến trình độ nhất tâm không nghi. Nếu có thể đạt đến nhất tâm không nghi, người đó mới bắt đầu có được cái đạo Khởi phần. Nếu trong lòng còn nghĩ đến khuyết điểm của người khác và nghi ngờ tất thảy hữu tình đều không phải là hóa thân của Kháp Giác, thì đạo lý Khởi phần nhất định sẽ không đến. Chỉ với tâm không chút nghi ngờ thì Kiến đạo tự đến. Kiến đạo đến thì cách đối trị tám vạn bốn ngàn phiền não sẽ tự nhiên hiểu. Đạo này có năm: Một, tụ đạo; Hai, hành đạo; Ba, Kiến đạo. Khi đến Kiến đạo, sân tâm nghi tâm sẽ tự nhiên bị diệt trừ. Kiến đạo có 16 kiểu, sau khi từng kiểu đi qua, thì đến Bốn, tu đạo mới bắt đầu đến. Đạo này và Đệ nhất địa ở Tất địa cùng đến. Qua phần tu đạo thì đến Năm, bất học đạo mới bắt đầu đến. Khi đến trình độ bất học đạo này thì tức là thành Phật rồi. Những gì không biết trước đó, đến đây tự nhiên đều thông hiểu, vì Pháp thân thành tựu đủ cả lục thông rồi. Năm đạo nói trên đều thuộc phạm vi của Hiển giáo, người nào có thể chuyên cần tu quán tưởng kể trên, khi thì chết Phật quang vừa đến, lập tức Trung âm thay thế thành Phật rồi” (62-62).

Chỉ với pháp quán tưởng mà nói có thể thành tựu đạo Giải Thoát, nói có thể thành tựu Pháp thân, có thể đạt đủ lục thông, thật đúng là đại vọng tưởng. Bởi lẽ người nào muốn chứng được Lậu tận thông, thì phải hiện quan “cái Ngã Tâm giác tri, cái Ngã tâm tư lượng” là hư vọng. Sau khi hiện quan xong, còn phải đoạn trừ sự chấp trước “muốn làm cho hai cái Ngã này tồn tại mãi mãi”. Sau khi thực sự đoạn trừ được rồi thì mới có năng lực, tự tin lúc xả báo nếu muốn đoạn trừ Tự Ngã (chính mình), thì liền có thể khiến cho “cái Ngã Tâm giác tri, cái Ngã tâm tư lượng” của đời sau không còn hiện hành nữa, như thế mới là người thực sự chứng được Lậu tận thông. Thế nhưng, các thày Mật giáo từ xưa đến nay đều nói Tâm giác tri thường trụ bất hoại, đều nói ly niệm linh tri thường trụ bất hoại, đều nói đại lạc Đệ tứ hỷ trong Lạc Không song vận là đại lạc thường trụ bất hoại, tức đều rơi vào trong cảnh giới Tâm ý thức, tức đều là những người chưa đoạn được Ngã kiến, khi xả thọ nhất định sẽ xảy ra chuyện Tâm giác tri và Tâm tư lượng không chịu đoạn diệt mà dẫn đến Như Lai Tạng lại thụ sinh nhập thai, nghĩa là căn bản không có chút xíu thành tựu nào đối với tu chứng quả giải thoát. Những người chưa hề đoạn Ngã kiến như thế tức là phàm phu đúng nghĩa, lại tiếp tục thụ hành Song thân pháp ngoại đạo để tu, thực hành, xoay chuyển. Những kẻ phàm phu tu học pháp ngoại đạo chưa hề Kiến đạo như thế mà nói đến tụ đạo, kiến đạo, hành đạo, tu đạo, bất học đạo, mà nói Trung âm thân có thể thành tựu Phật đạo, đều là những kẻ đại vọng ngữ, đều là những kẻ lừa đời trộm danh. Việc truyền thụ pháp môn như thế mà nói đến nghĩa lý Kim Cương, đều là những lời nói suông không có chút thực nghĩa gì.

Các đại phái của Mật giáo đã như vậy, Hoàng giáo được xưng tụng là thanh tịnh nhất cũng hoang đường như thế. Ví dụ, Tông Khách Ba nói: “Như Long Mãnh Bồ Tát nói: ‘Do đắc phong chân thực, tiệm nhập chú chân thực, liễu đạt chú sở duyên, học tập Kim Cương tụng. Hành giả Kim Cương tụng, năng đắc duyên Tự tâm, trụ như ảo đẳng trì, lấy Thực Tế tu trị. Từ Thực Tế khởi định, sẽ đắc Vô nhị trí, trụ song vận đẳng trì (trụ ở đẳng trì Lạc Không song vận trong Song thân pháp – nhất tâm thụ lạc và không sinh khởi các vọng tưởng phân biệt chư pháp), càng đạt vô khả học (đến đây thì pháp môn tu đạo của Mật giáo đã viên mãn, không còn cái gì để học nữa, nên gọi là đạo Vô học)’” (21-546-4).

Những kẻ thiển học trong Mật giáo như hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn vì không biết Tông Khách Ba thực chất lấy pháp môn dâm lạc hợp tu song thân làm pháp chủ tu của Hoàng giáo, cho nên đã vọng ngôn nói Tông Khách Ba của Hoàng giáo không truyền pháp này, rõ ràng là không hề hay biết gì về bản chất của Mật giáo, căn bản còn chưa nhập môn Mật giáo, chỉ là hành giả Mật tông sơ cơ học cạn, thì có tư cách gì hoằng truyền Mật pháp? Có tư cách gì để ra mặt biện hộ cho Mật tông? Ví dụ, Tông Khách Ba lại nói thế này:

“Ở đây nếu chưa biết thế nào là quả vị tu bất cộng, thì các đạo Sinh khởi viên mãn dễ bị lẫn lộn. Biết thì lấy đó làm ví dụ, thì dễ liễu đạt các pháp có thể tu đạo. Như “Ngũ thứ đệ luận” nói: ‘Chính học đại du già, đã tu tập song vận (đã tu tập Lạc Không song vận)’. Song vận tuy có hai thứ ‘học’, ‘vô học’, nhưng chỉ là một loại, cho nên nói gộp lại. Việc song vận, tuy có nhiều dị thuyết, phải đứng ở nhị đế thế tục và thắng nghĩa mà giảng. Như “Ngũ thứ đệ luận” nói: ‘Thế tục và Thắng nghĩa (Bồ Đề tâm thế tục – tinh dịch, và Bồ Đề tâm Thắng nghĩa – Tâm giác tri trong Lạc Không song vận. Chi tiết xem phần thuật Chứng phần trong chương 8, 9), liễu tri các biệt phần, cái nào chính hòa hợp (cần nên hiểu rõ thế nào là chính hòa hợp của hai Bồ Đề tâm), gọi đó là song vận’. Cái đạo lý về song vận, trong cuốn luận đó còn nói rằng: ‘Thứ đệ như thế đó, tự gia trì quang minh. Chỉ hai thứ hòa hợp, là thứ đệ song vận (chi tiết xem Vô thượng yoga trong chương 9)’. Ở đây là nói thân hiện Hồng thân thanh tịnh gia trì, tâm thành trí tuệ một vị thắng nghĩa chân thực. Hai cái này không phải là một có một không tồn tại riêng biệt, mà là chỉ việc đắc đồng thời Trí thân hoà hợp. Việc này vào lúc ở quả vị Vô học, tâm hằng trụ ở chân thực, thân cũng thành tựu Cứu cánh thân tướng hảo trang nghiêm” (21-546~547).

Bản chất của Mật tông như thế, hoàn toàn là bám duyên vào dâm lạc của pháp tu song thân, để coi Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận của Song thân pháp là Thắng nghĩa đế. Ví dụ Tông Khách Ba lại nói thế này: “Các Viên mãn thứ đệ khác, cũng buộc phải tu Trí thân song vận (với các Viên mãn thứ đệ khác, cũng phải tu chứng hoàn thành Câu sinh trí thân trong Lạc Không song vận). Cho nên phải tư duy: làm thế nào tu tập để có thể nhiếp trì tông yếu của Viên mãn thứ đệ. (21-554)” (Chi tiết khác xem thêm trong cuốn sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba, ở đây không nhắc lại để tránh nhàm chán). Sở truyền, sở tu, sở chứng của Tông Khách Ba chí tôn của Hoàng giáo đều là pháp môn hưởng lạc của phái Tính Lực ngoại đạo, thuần túy thuộc về pháp hữu vi hữu lậu của thế gian, hoàn toàn chưa từng chứng được tâm Kim Cương – Thức thứ tám Như Lai Tạng, thì sao có thể gọi Mật giáo đó là Kim Cương thừa được? Tuyệt không có cái lý đó!

Những chuyện “tức thân thành Phật, Trung âm thành Phật, cứu cánh thành Phật” mà Tông Khách Ba và các thày Mật giáo nói đều là hư vọng, không chỉ trái giáo mà còn bội lý. Cứu cánh thành Phật mà chứng Hồng quang thân họ nói ở đây cũng rơi vào trong hư vọng tưởng: “Cho nên “Ngũ thứ đệ luận” nói: Từ hình ảnh trong gương mà hiểu được ảo thân, chư sắc như cầu vồng, như ánh trăng dưới nước có ở khắp nơi. Nghĩa lý này ý nói rằng tự thân từ phong tâm hiện thành thân Kim Cương tát đỏa nói ở trên nó giống như các thí dụ kia. Không nói rằng chỉ có nhận biết tấm thân thô bằng xương thịt, mà hiển hiện rõ ràng thanh tịnh vô ngại giống như mặt trăng dưới nước kia vậy. Chỉ bằng Sinh khởi thứ đệ cũng có thể tu được như vậy, thì khi mà Sinh khởi thứ đệ còn chưa kiên cố, cũng hiểu nhiều được rằng sự hiển hiện siêu thắng hơn bằng mắt nhìn, thanh tịnh vô ngại tựa như ánh sáng cầu vồng. Lại nữa, “Nhiếp hành luận” nói: Từ Sinh khởi thứ đệ đến Tam viễn li, đều không có ảo thân. Sinh khởi thứ đệ này đạt cứu cánh, tại vị Tế điểm tuy có thể viên mãn hiện khởi Mạn đà la năng sở y trong mức chỉ bằng hạt cải, sự hiểu biết rõ ràng được kiên cố, thế nhưng không phải là ảo thân. Cho nên, những cái đó đều không có nghĩa lý về ảo thân. Khi thiên nhân tựa như hồng nghê (cầu vồng), hiện khởi thân thanh tịnh vô ngại như thế, chính kiến ức niệm tuy nhận thấy toàn bộ không có tự tính, như ảo tướng hiện, thế nhưng không có nghĩa lý ảo thân… Lại nữa, ở Sinh khởi thứ đệ vị, khi dần thu tình khí nhập Không tính, diệt tất thảy cảnh thô như hiển sắc, nhận rõ và an trú lìa tâm. Sau đó từ định sinh khởi, tuy không tác ý, cũng có thể hiển hiện thiên thân và hiện thanh tịnh vô ngại” (21-548).

Sau khi chứng được thiên thân mà hóa trừ giác thụ (cảm nhận) về nhục thân thô sắc như thế, chuyển sang quán tưởng “thiên thân” quảng đại đã hình thành, phát khởi quang minh tựa như ánh cầu vồng. Quang thân hồng quang đó chính là Phật thân mà Cứu cánh Phật của Mật giáo chứng được. Thế nhưng, những thứ đó đều là hư vọng, vì thuần chỉ là hình ảnh do Ý thức quán tưởng mà thành. Ý thức vốn đã là pháp y tha sinh khởi, thì “thiên thân quảng đại” do Ý thức quán tưởng mà thành thực chất cũng chỉ là hình ảnh hiện lên trong Tâm giác tri mà thôi, không phải là có thiên thân này thật trong thiên giới. Mật tông lại đứng từ “thiên thân” do quán tưởng mà thành này để quan sát thành thân không có xương thịt, lại quán thành thân cầu vồng năm bảy sắc mà không có mặt mũi, nói đó là Phật thân trang nghiêm ở Phật địa cứu cánh, cũng có thể nói đó là mức độ tột cùng của sự vọng tưởng. Tông Khách Ba nay với pháp hư vọng bất thực này, bằng pháp dựa vào Ý thức y tha khởi tính sinh ra này để nói rằng đó là pháp môn mà Kim Cương thừa nhất định phải tu học, thì sao có thể gọi là cái thừa Kim Cương[1] được? Vì Hồng quang thân tu được kia là pháp lúc hiện khởi, lúc đoạn diệt, không phải là pháp có Kim Cương tính thường trụ bất đoạn, bởi đều là thứ dựa vào sự quán tưởng khi Ý thức giác tri mới được thành tựu, tức là nhờ vào tu mà sau mới có, trong khi Phật nói Thức thứ tám mới là Pháp thân thực sự của Phật.

Cái mà gọi là thân Hồng quang đó chỉ là vọng tưởng, do Nội tướng phần của bản thân tạo ra, không phải là sự tu chứng thân Hồng quang có thực bên ngoài thân thể, đều là những lời lẽ xuyên tạc phụ họa để nhằm lừa dối chúng sinh mà thôi. Thủ đoạn nói dựa trên sự vọng tưởng như thế, từ xưa đến nay một mạch tương truyền, sao chép lẫn nhau và xảo diệu đến mức ai nấy đều khác nhau, vậy mà đến nay vẫn có những người học Mật giáo bắt chước thực hành.

Ví dụ như Nguyên Âm lão nhân “Hiển” Mật song tu, thân mắc bệnh ung thư, nội tạng đã thối nát đến mức chảy máu trong rồi, thế nhưng đến lúc mệnh chung vẫn cố tình che dấu, nhẫn nhịn không chịu nhổ ra, cũng bởi nhằm thị hiện cái vẻ bề ngoài là có khả năng tọa thoát lập vong, nhằm giữ gìn lấy cái danh thanh “nhà đại tu hành” của ông ta. Thế nhưng rốt cuộc vẫn không tránh nổi việc sau khi thổ huyết thì ngã xuống, lại tiếp tục nôn ra máu mà chết. Còn những tín đồ thân cận cạnh ông ta, để vớt vát lấy đại thanh danh này nhằm thừa kế, để có thể tuyên dương với bên ngoài, muốn lấy việc đó để làm chứng cứ kế tục pháp thường kiến của mình, nên đã cùng nhau ước định rằng: thống nhất tuyên cáo ra ngoài rằng ông ta đã hiển đại thần thông, đã tọa thoát lập vong, che dấu sự thật ngã lăn ra đất, thổ huyết đưa vào bệnh viện mà chết của Nguyên Âm lão nhân. Sau đó, đám đệ tử còn xây dựng tháp xá lợi cho ông ta, xưng là thánh nhân nữa. Những hành vi như thế quả đúng là những kẻ ngu si “không đắc nói đắc đạo, chết nói nhập Niết Bàn, chúng nhân tin dựng tháp, mà tự nhập địa ngục” được nói đến trong “Kinh Phật Tạng”. Những kẻ hầu cận như thế, bất luận trước khi Nguyên Âm lão nhân chết có dặn dò thế nào mà vẫn thực hiện như vậy, đều là những hành vi cuồng ngữ và tạo tháp giả thị hiện hình tượng thánh nhân mà tôn sùng, đúng là những kẻ ác hãm hại Nguyên Âm lão nhân vào địa ngục. Việc vọng ngôn nói ông ta tọa thoát lập vong, hiện đại thần thông quả thực là những lời lẽ đầy hư vọng, giả dối.

Ngày nay, nếu không phá họ, thì sau này sẽ có người tôn sùng ông ta thành đại sư một đời thực sự đã chứng ngộ, thì những trước tác của ông ta sẽ có khả năng dẫn dắt sai lầm chúng sinh lâu dài hơn. Đại chúng mê muội trước danh thanh của ông ta và đám đệ tử kế thừa ông ta, tất sẽ không dám phê bình đối với sự tôn sùng hư vọng về chứng lượng của ông ấy, thì sẽ dẫn đến việc các tác phẩm thường kiến ngoại đạo của ông ta sẽ tiếp tục được lưu truyền rộng rãi, tiếp tục dẫn dắt sai lầm chúng sinh, di hại cho nhân gian hàng trăm năm, từ nay về sau sẽ còn nhiều người truyền thụ pháp thường kiến ngoại đạo của ông ta. Việc cuồng hoặc đại chúng thế tục của các thượng sư Mật tông như thế, xưa nay đều không khác nhau. Những gì họ nói, họ tu, họ chứng đều thuộc pháp do Tâm ý thức hữu vi hữu lậu tạo nên, chưa hề chứng được Tâm Kim Cương Thức thứ tám, thì sao có thể nói là pháp Kim Cương được? Thế mà lại dám nói thừa đó là Kim Cương thừa, thật đúng là lời lẽ cuồng vọng hết sức.

Lại nữa, ánh sáng mà Hồng quang thân hiện ra cũng chỉ là tà quang, không phải là chính quang. Quang minh thực sự phải là kim quang, mà trong kim quang đó có tàng chứa bạch quang cực mạnh, mới là quang minh của Phật. “Phật” của Mật giáo ngày nay đều coi ánh sáng ngũ sắc cầu vồng là Phật quang, đều coi thân của cầu vồng ngũ sắc là Phật thân, hoang đường hết sức! Thế mà các thượng sư Mật giáo kia đều không hiểu cái lý này, vẫn tiếp tục dương dương tự đắc với cái hồng quang quỷ thần đó, nói đó là ánh sáng mà Phật của Hiển giáo không có, nói đó là ánh sáng chỉ có Phật của Mật giáo mới có, thật đúng là đảo lộn trắng đen.

Hồng quang thân như thế, nó chẳng liên quan gì đến thực chứng Tâm Kim Cương cả, không liên quan gì đến thực chứng thể tính Pháp giới, không liên quan gì đến thực chứng Bát Nhã, cũng không liên quan gì đến thực chứng giải thoát, thuần túy chỉ là lời nói của kẻ vọng tưởng, không liên quan gì đến tu chứng trong Phật pháp. Mật giáo lại đem Hồng quang thân không liên quan gì đến tu chứng Phật pháp như thế ra để huyễn diệu lòe bịp các tông các phái khác, nói đó là pháp Kim Cương thừa, thật đúng là những ngôn từ vô tri, làm gì có chút bản chất nào của thừa Kim Cương mà nói?

Lại nữa, Bản tôn cứu cánh mà Mật giáo quán tu cũng chỉ là hình ảnh song thân thường thụ dâm lạc, cũng là từ mật xứ (chỗ kín) sinh ra, đều là dựa vào mật xứ của bản thân hoặc Không Hành Mẫu, cho nên phải lấy xúc thụ dâm lạc do hợp tu song thân mà có để cúng dường cho nó, khi cúng dường dâm lạc phải quán Bản tôn tay ôm Minh Phi hưởng thụ khoái lạc ở chỗ mật xứ của Minh Phi mà hành giả đang ôm ấp (chi tiết xem ví dụ nêu trong Tiết 6 Chương 9). Lý luận và pháp môn thực tu của hợp tu song thân của Mật giáo tà dâm như thế không liên quan gì đến Kim Cương Thực Tướng Tâm của Pháp giới, thì sao có thể nói Mật giáo là Kim Cương thừa được?

Từ cổ chí kim, do lúc nào cũng có người phê bình pháp nghĩa của Mật giáo không phải là Phật pháp, cho nên Mật giáo buộc phải có nhiều biện giải đối với vấn đề này. Ngày nay cũng như vậy, cho nên đại Nhân Ba Thiết của Mật tông mới nói rằng: “Trong lịch sử, Kim Cương thừa vẫn luôn phải đối diện với nghi vấn liệu có phải là giáo pháp của Phật Đà hay không. Điều này cũng giống như các tông phái Phật giáo Tiểu thừa ở Ấn Độ vẫn thường tuyên bố Đại thừa không phải là giáo pháp thực sự của Phật Đà nên tăng cường bài bác. Có một số giáo phái Tiểu thừa và Đại thừa cũng đứng ra công kích tính chân thực của Phật pháp Kim Cương thừa… Mọi người thường kỳ vọng đạo sư và giáo pháp tôn giáo trở thành quy phạm tối cao, có tiêu chuẩn đạo đức nghiêm khắc nhất của tôn giáo đó. Kim Cương thừa đi ngược chiều với các kỳ vọng này, nó thường sử dụng các hành vi dã man (như dùng Ngũ nhục cúng dường, tru sát người khác bằng pháp Tru…) và quái dị không chấp nhận nổi (như dùng dâm dịch trong Ngũ cam lộ, đại tiểu tiện… làm đồ cúng dường). Giáo pháp và phương thức tu hành của nó cũng khiến người ta rất lấy làm kinh ngạc (truy cầu dâm lạc tối cao bằng song thân pháp), phải tin tưởng giáo pháp này do Phật Thích Ca Mâu Ni có hóa thân ôn hòa và ninh tĩnh truyền dạy, quả thực là có chút khó khăn… Thế nhưng trong Tam Tạng mà chúng ta vẫn thường chấp nhận đó cũng không tìm thấy cái gì của Kim Cương thừa” (179-176~178).

Thế nhưng, nói như vậy đều là những lời lẽ “lạc quan quá mức, che dấu chân tướng” và “mỹ hóa Mật giáo”. Đối với Mật giáo thực tế mà nói, họ thường nói rằng “lấy dục ngừa dục”, nhưng lại thường nghĩ đến nữ sắc, thường nghĩ đến dâm lạc. Các thượng sư Mật giáo chuyên cần tu Song thân pháp, cho dù có đắc Đệ tứ hỷ đi chăng nữa thì dâm tâm vẫn không thể ngừng tắt. Ví dụ, có thượng sư nào đó chuyên tu Song thân pháp, cả đời nỗ lực tu hành. Vì muốn cầu chứng tức thân thành Báo thân Phật quả, cho nên lúc lâm chung, anh ta đã quán tưởng Bản tôn và Minh Phi song thân ôm nhau hưởng lạc, quán tưởng mình đã thành Bản tôn, vẫn hiện hành hình tượng xấu xa nhất trụ kình thiên (dương vật cương cứng) khi nằm ngửa trên giường trước phút lâm chung, mất đi nghi luật của “Phật tử”. Như vậy mà nói là lấy dục ngừa dục, mà nói là pháp Tham đạo thành Phật, hoang đường đến mức độ nào nữa? Nó cũng hoàn toàn không liên quan gì đến pháp Kim Cương, thì sao Mật giáo có thể tự nói tông mình là Kim Cương thừa được?

Cũng giống như các thượng sư Mật tông mạo xưng Đả Na Lạp Đạt[2] trong tâm thường tơ tưởng đến gái đẹp, thường nghĩ đến việc cùng hưởng dâm lạc với nữ nhân vân vân (chi tiết xem ví dụ thực tế trong Chương 9). Cho nên nói Mật tông là cuồng Mật trong hiện thực, ai nói là không được? Mật giáo như thế, lại tự ngoa ngôn nói tông mình là Kim Cương thừa, kỳ thực hoàn toàn trái ngược với Kim Cương tính trong Phật pháp, bản chất chỉ là ngoại đạo mà thôi.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Kim Cương ở đây là nói tính kiên cố chân thực bất hoại, đối nghịch với pháp tu vọng tưởng bất thực.

[2] Chú thích của người dịch: Tức là Đa Na La Tha của phái Giác Nãng Ba.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35639


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg