The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 40: Mật tông hiểu sai về Niết Bàn vô dư

 Tiết 40: Mật tông hiểu sai về Niết Bàn vô dư

Sự hiểu sai về Niết Bàn của các thày Mật tông từ cổ chí kim đều chẳng khác gì pháp sư Ấn Thuận, hoàn toàn không biết cũng không chứng được chân nghĩa của Niết Bàn vô dư mà lại nêu ra các loại vọng tưởng. Thậm chí thượng sư Mật tông mạo danh Đa La Na Tha cũng có tà tư đối với Niết Bàn thế này:

“Nửa đêm mộng qua Thủ Long, cỏ mọc rất dày, Không Hành Mẫu như mây như vải, những người đẹp như Tây Thi, xấu như Vô Diệm, ác như La Sát, hình như cốt khô, già như da gà đều có đủ cả. Địa cơ cũng như hình người nữ, các Không hành đều an trú ở trên thân người nữ này. Địa cơ có đủ liên hoa, nhụy hoa, cây đàn hương. Trong liên hoa có vô lượng Dũng sĩ Không hành, đều tụ hội với nhau. Bốn phương bốn sông đang chảy lững lờ. Ngẩng nhìn lên trời, thì thấy khắp hư không là Hách Lỗ Hát, một mặt hai tay, chùy dựng đứng như vách núi, nhằm xuống người nữ địa cơ, mãnh liệt muốn thử. Những người nữ có diện mạo xấu nói: ‘Đả Na Lạp Đạt! Ngài định đổ hết huyết Dũng Phụ mẫu trong bình ư? Lẽ nào ngài không có lỗi gì ư?’. Những người đẹp khác thì phản bác lại rằng: ‘Ở đây không có lỗi lầm gì hết, sau này Mật bộ sẽ lấy đó làm câu quyết định, hôm nay người thành tựu viên mãn chỉ có một, hai người thôi. Sau này có vô lượng chúng, sẽ thú hướng đến cửa đại lạc này, dựa vào câu quyết định này, vô lượng ức chúng sẽ được sinh ở sát thổ (Phật thổ) có đủ liên hoa, tên Phật là Bạch Mã Ca Ba, nhất định là người đắc đại Bồ Đề quả, các người đừng ngăn trở’. Người chủ nữ trong đám người đẹp, tuổi chừng hai mươi, mặc áo màu lục, cùng ta kết ấn Bình đẳng (cùng ta hợp tu Song thân pháp). Chùy ta dựng đứng, nhập thẳng đến Tề luân nàng, nàng ấy cảm thấy cực kỳ khoái lạc. Lại ra sức hành, cuối cùng đạt đến Tâm luân nàng, nàng sướng như mê túy. Nàng nói: ‘Buổi gặp gỡ hôm nay, nhân duyên thật tuyệt diệu, thử quán hư không địa cơ, Bản tôn giao cấu, hữu tình trong Tam giới lưu chuyển (sinh tử) giao cấu bằng lậu xuất Minh điểm, còn giữa chư Phật và Bồ Tát thì giao cấu mà không lậu xuất Minh điểm, ở trong Niết Bàn tịch tĩnh. Tất thảy pháp thế xuất thế gian, chỉ có biểu thị bằng pháp giao như vậy. Anh khéo thể hội ý nghĩa này, mới có thể hành đạo này. Đời này cho đến đời sau, sẽ có 500 thê (vợ), 5000 tần; lại đến đời sau nữa, thê có 1 vạn; đời sau nữa, thê có 10 vạn’. Sau khi thọ ký như thế xong, lại hiển hiện giống như trước, như hồng (cầu vồng) quy không” (34-621~622).

Thượng sư Mật tông mạo danh Đả Na Lạp Đạt kia lại ngang nhiên cuồng ngôn vọng ngữ nói “(chư Phật Bồ Tát) giao cấu trong Niết Bàn tịch tĩnh”, hiểu sai về Niết Bàn nghiêm trọng đến mức độ như vậy, thế mà lại có thể nói rằng đó là pháp môn tu chứng Quả địa cao siêu hơn cả Hiển giáo, nói rằng đó là pháp môn tu chứng tức thân thành Phật, thật đúng là những kẻ hiểu sai nghiêm trọng nhất nhất về Phật pháp.

Phật Thế Tôn trong các kinh Tứ A Hàm đều nói: Niết Bàn tịch tĩnh là chỉ việc diệt tận pháp Thập bát giới, duy chỉ còn sót lại “Thức thứ tám” mà Thập bát giới duyên vào trước khi nhập Niết Bàn vô dư, nó không còn tiếp tục đi thụ sinh, gọi là Niết Bàn. Trong các kinh Duy Thức Chủng Trí của Tam chuyển pháp luân, Phật cũng nói rằng: Cái “Thức mà Danh Sắc duyên vào” hằng trụ trong cảnh giới “lìa kiến văn giác tri, lìa tư lượng làm chủ”.

Như vậy là đã có thể biết rằng, trong “cảnh giới” Niết Bàn, thực chất không hề có bất kỳ cảnh giới nào nữa: Không có cái tri, không có cái giác, không có cái tư lượng, không có cái làm chủ, không có lục căn, không có lục trần, không có lục thức, Uẩn Xứ Giới đều diệt tận, Thập bát giới và tất thảy pháp đều diệt tận không còn hiển hiện, không còn có chúng sinh tồn tại, không còn có “các loại Ngã – cái tôi” tồn tại, thì sao có thể nói là “giao cấu trong Niết Bàn tịch tĩnh”, nói “giữa chư Phật và Bồ Tát thì giao cấu mà không lậu xuất Minh điểm, ở trong Niết Bàn tịch tĩnh”? Nếu người nào muốn giả danh Đa La Na Tha để viết sách, thì ít nhất cũng nên tìm người có hiểu biết chút ít về Phật pháp mà ngụy tạo sách, thế mà lại dùng thượng sư hoàn toàn không hiểu gì về Phật pháp để giả mạo, chỗ nào cũng có sai lầm, khiến người ta cảm thấy tri kiến của các thượng sư Mật tông thô thiển đến mức không gì so sánh được nữa.

Việc phá hoại Phật pháp dưới thân xuất gia trong Phật giáo như thế, việc dùng lồng ghép các danh tướng Phật pháp, giả vờ hoằng dương Phật pháp để làm nhục chư Phật Bồ Tát như vậy, chẳng có gì hơn thế này nữa cả. Trong cuốn “Đả Na Lạp Đạt mật truyện (chi tiết xem 34-628)” do các thượng sư Mật tông mạo danh Đả Na Lạp Đạt ngụy tạo ra lại viết những lời lẽ điếm nhục Phật giáo, hạ nhục chư Phật Bồ Tát như vậy, còn hiểu sai về Niết Bàn nghiêm trọng đến bước đường này, tại sao các thày Mật tông lại có thể chấp nhận mà không hề bài bác? Lại còn coi đó là sách trân quý bậc nhất? Lẽ nào họ quả thực muốn tri kiến tà trái hoang đường của Mật tông lại được quảng truyền ở khắp thế giới ngày nay, và muốn tiêu diệt mãi mãi thánh giáo của Thích Ca Thế Tôn chúng ta ư?

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35586


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg