The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 36: Bản chất pháp sám hối Kim Cương thừa và Bách tự minh của Mật tông

 Tiết 36: Bản chất pháp sám hối Kim Cương thừa và Bách tự minh của Mật tông

Sám hối mà các thày Mật tông nói thực ra là sám hối với quỷ thần, tuyệt đối không phải là sám hối với chư Phật Bồ Tát, vì pháp sám hối họ tu trái ngược với Phật pháp, đối tượng sám hối mà họ đối diện cũng không phải là Phật Bồ Tát, trong khi việc sám hối bằng pháp song vận là pháp do quỷ thần truyền thụ: “Pháp sám hối của Hiển giáo, như ‘Lương Hoàng sám, Thủy sám, Tam thập ngũ Phật sám’, đều có yếu nghĩa Đại thừa, nhưng không bao gồm quả pháp của Mật tông. ‘Sám pháp Kim Cương tát đỏa’ là lấy cam lộ chảy ra (dâm dịch chảy ra, rỏ lên đỉnh môn của hành giả Mật tông để nhập vào trong thân) trong quá trình Bản tôn (do quán tưởng mà thành) song vận (hai người phụ mẫu giao hợp), dùng nó để tẩy trừ tất thảy mọi tội nghiệp, là pháp mà Hiển giáo không có. Cam lộ song vận đại bi đại trí này có sức gia trì rất lớn. Còn ‘Bách tự minh’ hàm nghĩa cao thâm, khởi thỉnh ân trọng. Cái có thể sám là tự tính Kim Cương. Sau khi sám xong, bản thể không xả bỏ. Qua đó chỉ cần nghĩ là biết…” (34-726).

Thế nhưng cái mà Mật tông lấy làm tự hào lại chính là pháp tà trái hoang đường nhất của Mật tông. Mật tông lấy dâm dịch chảy ra sau khi Bản tôn Phật Phụ mẫu do quán tưởng giao cấu, coi đó là cam lộ vô thượng để rót “tẩy” sạch tội nghiệp của hành giả Mật tông, thật đúng là vọng tưởng lớn nhất trên thế gian này. Với thứ tà dâm hoang đường như thế mà nói có thể làm thanh tịnh mọi tội nghiệp của hành giả, liệu có cái lý ấy chăng? Thế mà các hành giả và thượng sư Mật tông lại có thể tin theo, không chút nghi ngờ? Thật đúng là thứ vọng tưởng lớn nhất trong thiên hạ.

Đạo tham dâm dục không phải là thứ do Phật truyền thụ mà chỉ là pháp do thiên ma, quỷ thần truyền bá, như thế mà nói “Pháp sám hối Kim Cương tát đỏa” trong Bách tự minh có thể vượt hơn hẳn mọi nghi lễ sám hối của Hiển giáo và nhanh chóng làm sạch tội, không thể nào tin nổi! Mật tông nói thế này: “Theo ‘Pháp sám hối Kim Cương tát đỏa’: Pháp này sở dĩ có thể vượt trội hơn mọi nghi lễ sám hối của Hiển giáo, lại nhanh chóng làm sạch tội, vì đạo lý của nó cao thâm, vừa hay tương hợp với Đại thủ ấn’. Cho nên đọc ‘Tụng văn Bách tự minh’, một là nói rằng: ‘Bỗng nhiên hiển tự tính thanh tịnh’, hai là nói rằng: ‘Khiến ta hiển tự tính chân thực’, ba là nói rằng: ‘Nguyện ta hiển tự tính quảng đại’, bốn là nói rằng: ‘Nguyện ta đi theo tự tính tham’. Bốn tự tính trong này chính là Đại thủ ấn đó. Niệm tụng bái sám thông thường đều là nói theo nghĩa lý nhân quả, tuy có lúc cũng ngẫu nhiên đề cập đến Không tính, như nói tội từ tâm sinh ra, đem sám hối tâm vân vân, nhưng đều là lý thú thắng quán mà thôi. Còn Kim Cương tát đỏa thì hiện khởi cam lộ bi trí bằng phương tiện thù thắng trong quả vị để tẩy rửa chúng, đồng thời khiến cho người sám hối hiện khởi được Không tính tự tính, cho nên có thể căn bản liễu đạt Không lý tội tính” (34-841).

Nói như vậy đều là vọng tưởng tự ý cả. Ở đây muốn nói các thày Mật tông từ cổ chí kim đều không từng hiểu, không từng biết, không từng chứng được nghĩa lý chân thực của Không tính, mà chư Phật Bồ Tát do thiên ma, quỷ thần hóa hiện là khởi nguồn chư pháp của Mật tông kia, họ cũng chưa bao giờ chứng biết được nghĩa lý chân thực của Không tính, cho nên những lời lẽ như “Bỗng nhiên hiển tự tính thanh tịnh, khiến ta hiển tự tính chân thực, nguyện ta hiển tự tính quảng đại” của họ đều thành vô nghĩa, đều là nói suông, vì đều coi vọng tâm Ý thức là Tự tính chân thực bất hoại. Thế mà “Pháp sám hối Kim Cương tát đỏa” của Mật tông lại khiến cho người ta phát khởi “Nguyện ta đi theo tự tính tham” khi làm sám hối, như thế thì chắc chắn là rơi vào trong tham dục thô nặng nhất trong Dục giới rồi. Cầu đạo Giải Thoát bằng tâm dục như thế nhằm thực hiện các hành vi tham cầu dâm dục thô nặng nhất trong Dục giới, để khởi tâm tham cầu pháp thô năng nhất, lấy đó làm pháp sám hối, căn bản chỉ là phát nguyện pháp trụy lạc, sao có thể nói rằng pháp sám tội của Mật tông có thể tiêu trừ được nghiệp chướng? Lại còn cuồng ngôn nói đó là pháp môn sám hối thù thắng hơn Hiển giáo, thật đúng là những cao thủ trong việc nói năng điên đảo vậy!

Các phái của Mật tông vẫn thường xướng ngôn rằng: “Tụng niệm Bách tự minh có thể sám trừ tội nghiệp”, nhưng thực chất việc tụng niệm Bách tự minh là sám hối với quỷ thần, hướng đến đạo quỷ thần mà thôi, có sám được cái gì, có hối được cái gì? Thế nhưng những người trong Mật tông phổ biến đều không biết nội hàm của nó, lại lấy làm tự hào vì “Mật tông có pháp môn sám hối Bách tự minh này”. Nay tôi nêu ra lời tụng dịch ý của Bách tự minh để cung cấp cho những người có trí biết mà phán đoán, tự hiểu lấy sự tà trái hoang đường trong đó: “Kính lễ Đại Kim Cương mật thệ (Kính lạy người hộ trì pháp tu song thân – Hách Lỗ Hát), đốn nhiên hiển tự tính thanh tịnh (bỗng nhiên hiển hiện ra tự tính thanh tịnh của Không tính dâm lạc), trong Phật vị đại Kim Cương tâm (trong việc thành tựu Phật vị đại Kim Cương tâm của Đệ tứ hỷ), khiến con đắc kiên cố an trú (khiến con có thể duy trì không xuất tiết Minh điểm mà được cương cứng không mềm, nhờ đó mà an trú trong đại lạc, không bị đứt đoạn giữa chừng), khiến con hiển tự tính chân thực (khiến cho con hiển hiện ra tự tính chân thực Lạc Không bất nhị), khiến con có đủ tối cực thắng lạc (khiến cho con có được đầy đủ thắng lạc nhất trong Đệ tứ hỷ), khiến con hiển tự tính quảng đại (khiến cho con hiển hiện ra tự tính quảng đại của Tâm giác tri khi Không Lạc song vận), khiến con theo tự tính của tham (khiến cho con mãi mãi tùy thuận theo tự tính tham dục), khiến con được tất thảy thành tựu, khiến con thành tựu tất thảy sự nghiệp, khiến tâm con có đủ đại dũng, khiến con sinh khởi đại dụng của ngũ trí. Đại Thiện Thệ tất thảy Như Lai, Kim Cương bản thể (chỉ bản thể dũng mãnh không tiết xuất của cơ quan sinh dục nam. Đối với nữ thì gọi là Kim Cương liên hoa) đừng bỏ con, để con trụ trong tự tính Kim Cương, có đại dũng tâm đại mật thệ, trong bản thể vô sinh của pháp A, khởi đại trí tuệ Không Lạc Hồng, hàng phục tất thảy ma thù Phi” (35-172).

Dịch ý của Bách tự minh như vậy đã đủ chứng tỏ hàm nghĩa của nó rồi – đó là lấy sự tu chứng Song thân pháp, lấy việc tinh tấn hợp tu Song thân pháp để sám hối tội nghiệp cho hành giả Mật tông. Nhưng Song thân pháp tà dâm hoang đường, vạn pháp trong thế gian không có pháp nào vượt qua nổi, thì tuyệt đối không phải là pháp mà chư Phật Bồ Tát hoằng truyền. Nay chúng ta có thể khẳng định rằng: Bách tự minh chắc chắn là pháp do dạ xoa quỷ thần giả mạo hình tượng và danh hiệu chư Phật Bồ Tát để vọng truyền. Pháp sám hối Bách tự minh như thế, người nào càng tích cực sám hối theo cách đó thì càng thêm đọa lạc, cách Phật đạo càng xa, thì sao có thể nói là pháp thắng diệu hơn pháp sám hối của Hiển giáo được? Tuyệt không có cái lý đó! Các hành giả Mật tông có trí tuệ cần nên suy nghĩ cho kỹ!

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35582


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg