The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 34: Mật tông hiểu sai về tâm nghĩa

 Tiết 34: Mật tông hiểu sai về tâm nghĩa

Thượng sư Mật tông do chưa chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng tâm, cho nên Ngã kiến và Ngã chấp đều không biết cũng không đoạn được. Vì Ngã kiến và Ngã chấp đều không biết không đoạn, nên đã tự dựa vào sự tưởng tượng cá nhân để nói rằng đã biết về tâm Thực tướng, thành ra pháp mà họ nói đều thành vọng ngôn (nói láo). Ví dụ trong “Thậm thâm nội nghĩa” nói thế này: “Hành giới thắng tướng nghĩa, lìa một tướng dị tính, khi chư pháp siêu vượt nối tiếp ngoài một sát na, vô lượng triển chuyển sinh ra, cho nên nói vô thủy (không có khởi đầu). Từ khi mới bắt đầu có tâm bẩn, nếu chấp nó là thường có hoặc thường không có, như thế là nội hàm thuộc về Thân kiến, có hai sai lầm: tâm thường và bẩn ở cùng nhau, thì không có ngày đoạn diệt, đó là thứ nhất; tâm nếu vô nhân sinh (sinh ra mà không có nguyên nhân), thì cũng trái với lý. Long Thụ nói: ‘Phàm cái mà do duyên khởi sinh ra, biết cái nào trước cái nào sau? Cái sinh ra trước phải nên thế nào? Lại nữa, sau khi bị diệt thì đi về đâu? Trước và sau khi đoạn trừ, chúng sinh như ảo hiện’, như vậy là tâm Phật chúng sinh vì không có cái nào khác biệt, không thêm phân biệt, không đọa đoạn thường, thì lìa biên kiến. Trên đây đều là khai thị về bản thể của tâm” (34-341).

Nói như vậy là vọng tưởng, đồng thời còn dẫn sai, hiểu sai về câu kệ của Bồ Tát Long Thụ nữa. Các thày Mật tông vẫn thường vui vẻ nói rằng “sinh ra một pháp nào đó trong một sát na” hoặc nói “trong một sát na hiện ra pháp Thực tướng nào đó”, hoặc nói “siêu vượt nối tiếp…”. Thế nhưng thánh ngữ trong tất cả các kinh Phật pháp Tam thừa mà Thế Tôn tuyên giảng đều lấy Thức thứ tám Như Lai Tạng làm trung tâm, từ Như Lai Tạng mà nói về Bản Tế của Niết Bàn Nhị thừa, dựa vào Như Lai Tạng mà nói về Vô ngã kiến Nhị thừa vạn pháp Uẩn Xứ Giới duyên khởi tính không, dựa vào Như Lai Tạng để nói Trung Đạo quán của Bát Nhã Đại thừa, dựa vào Như Lai Tạng để nói vạn pháp của Uẩn Xứ Giới là tất thảy pháp không, dựa vào Như Lai Tạng để nói về Nhất thiết Chủng trí – Tăng thượng huệ học trong Duy Thức. Phàm những gì Phật giảng trong kinh đều không điều gì mà không lấy Như Lai Tạng làm gốc để tuyên thuyết.

Nay các thày Mật tông đều chưa chứng được tâm Thức thứ tám, đứng ngoài Thức thứ tám Như Lai Tạng để nói rằng có một cái tâm khác thường trụ bất hoại, đứng tách khỏi Thức thứ tám để nói rằng khi Tâm giác tri lìa cấu thì sẽ thành tâm Thực tướng, hoàn toàn ngu muội trước lời Phật dạy “Tâm giác tri là pháp Ý thức duyên khởi” trong các kinh Tam thừa, đứng ngoài Căn bản tâm Thức thứ tám mà nói rằng “Hành giới thắng tướng nghĩa, lìa một tướng dị tính, khi chư pháp siêu vượt nối tiếp ngoài một sát na, vô lượng triển chuyển sinh ra, cho nên nói vô thủy”, như vậy đều thành hý luận cả, vì những gì họ nói đều không động chạm gì đến Đệ nhất nghĩa đế - không hề liên quan gì đến thể tính Như Lai Tạng bản thể Thực tướng của Pháp giới.

Qua những câu như “Hành giới thắng tướng nghĩa, lìa một tướng dị tính” của Mật tông thì thấy rằng họ đều nói dựa vào sự ức đoán, tưởng tượng của mình, tuyệt không có ý nghĩa gì cả, vì bản chất chỉ là pháp tướng không có thật đứng ngoài tâm Thực tướng Như Lai Tạng để nói. Mà vạn pháp đều từ Như Lai Tạng sinh ra, cho nên Mật tông nói “trong một sát na, nhiều sát na siêu việt nối tiếp” mà sinh ra vạn pháp là hoàn toàn không có thực nghĩa, đều là sai lầm cho rằng “(vạn pháp) từ Tâm giác tri sinh ra”. Như thế mà nói về “nối tiếp nhau, siêu việt, vô lượng triển chuyển sinh ra, vô thủy” đều chỉ là những lời lẽ ức tưởng, không liên quan gì đến Phật pháp, vì đều là đứng ngoài tâm Thực tướng để nói về Phật pháp, bản chất chỉ là kẻ “cầu pháp ngoài tâm” mà thôi.

Lại nữa, tất cả Phật pháp, phàm những gì nói để khai thị cho người, đều phải dựa vào Đệ nhất nghĩa đế mà nói. Thế nhưng, Đệ nhất nghĩa đế phải dựa vào Tâm Thực tướng Thức thứ tám mới có mà nói. Cho nên, tất cả các bậc thiện tri thức khi nói về Đệ nhất nghĩa đế, không thể tách rời khỏi Tâm Thực tướng gốc rễ của Đệ nhất nghĩa đế mà nói được. Nay các thày Mật tông từ cổ chí kim đều dựa vào tâm Ý thức mà nói: Ai cũng nói Tâm giác tri ly cấu (thoát ly khỏi sự bất tịnh) thì thành tâm Chân Thực, thì thành Chân Như ở Phật địa. Thế nhưng Ý thức mãi mãi chỉ là Ý thức, mãi mãi chỉ là thức thứ sáu, vĩnh viễn không thể nào biến tâm Ý thức thành tâm Chân Như Thức thứ tám được.

Ví dụ như Phật xuất hiện ở nhân gian, cũng đều có tám thức vận hành đầy đủ, chứ không phải chỉ có sáu thức. Đã như thế thì phải biết rằng Chân Như ở Phật địa là do Thức thứ tám Như Lai Tạng ở Nhân địa sau khi thanh tịnh tùy miên và chủng tử của hai chướng mà trở thành Chân Như, (bản chất) vẫn là tâm Thức thứ tám chứ không phải là từ Ý thức chuyển biến thành Chân Như. Qua đó có thể thấy rằng câu “chuyển biến tâm Ý thức giác tri có cấu bẩn thành Chân Như ở Phật địa vô cấu” mà Mật tông nói chỉ là lời lẽ của kẻ vọng tưởng, hoàn toàn không phù hợp với chính lý mà Phật thuyết trong các kinh Tam thừa.

 

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35580


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg