The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 32: Vọng tưởng về Yoga vô tử của Mật tông

 Tiết 32: Vọng tưởng về Yoga vô tử của Mật tông

Các thày Mật tông thường nói hay ho rằng “Mật tông có Yoga vô tử”, thế nhưng cái gọi là “Yoga vô tử” của Mật tông kỳ thực chỉ là pháp vọng tưởng. Ví dụ Thượng sư Trần Kiện Dân nói thế này:

“…Quán tu tường thuật ở trên, không chỉ là cầu mong có được khái niệm về mặt tri thức mà thôi. Người học bắt buộc phải thể nghiệm được cảnh trí trong đó. Giả như là người có tâm, tự mình có thể quán tưởng Bản tôn; nếu như không có tâm (không có ý định) thì ai có thể quán tưởng Bản tôn?

Nếu như chúng ta có một quyết định (quan điểm chắc chắn) rằng: Con người đều có tâm. Giả sử rằng tâm có cái chết của nó thì phương thức chết là như thế nào? Chúng ta nếu chưa từng thấy, chưa từng nghe rằng tâm có phương thức chết của nó thì có thể xác lập một quan điểm chắc chắn rằng: Tâm không có cái chết.

Tâm không có cái chết thì thân còn chết không? Tâm đã có thể quán thân thành Bản tôn, mà tâm không chết thì thân làm thế nào mà chết được? Nếu như nhục thân chết đi, thì cái Tâm trong cảnh giới Trung âm liền có thể quán tưởng thân thành Bản tôn có quang (ánh sáng) của Không tính mà sinh khởi (tái sinh) trở lại. Cái loại thân Không tính này làm thế nào mà chết đi được? Cho nên, qua đây chúng ta có thể rút ra một kết luận rằng: Vì Tâm không chết nên thân cũng không chết. Qua đó cũng rút ra một quyết định: Tâm và thân không khác gì nhau…

Nếu muốn hiểu rõ thân là vô tử, hoặc quán thân không chết, chúng ta buộc phải xác quyết rằng: Tâm tức là Bản tôn, thân tức là tâm, cho nên thân và tâm đều không chết. Đây không chỉ là khái niệm tư duy mà thôi, học giả còn buộc phải dựa vào sức mạnh thiền định của mình để khiến cho sự thật về bí mật vĩ đại này trở thành hiện thực.

Lại nữa, giả sử Tâm tức là Không, thì nghĩa là chẳng có sinh, chẳng có trụ, chẳng có hoại. Như thế thì tâm không chết. Tâm đã không chết, thì thân cũng không chết. Tâm này vô sinh, vô tử, vô trụ. Bản tôn đi đứng nằm ngồi, các loại tác dụng của hành vi, không khác gì so với tâm, không tách rời nhau. Tâm này nếu đã không chết thì thân Bản tôn tự nó cũng không chết…Lại nữa, khi tôi dụng tâm quán ra Pháp thân Phật, thì Pháp thân của vị ấy liền không hai không khác với tâm linh của tôi. Nhục thân của tôi nếu đã nằm trong Pháp thân, hơn nữa lại bị quán thành một cái tâm Trí đăng (ngọn đèn trí tuệ) thì nhục thân của tôi và tâm mà tôi quán thành cũng không hai không khác rồi. Do đó, thân tâm tuy có hai tầng trong ngoài, nhưng bất luận là tầng nào thì cũng đều không chết. Học giả chỉ cần chăm chỉ luyện tập dựa trên kinh văn và pháp tu bổ sung của tôi thì chắc chắn có thể chứng được cảnh giới Yoga vô tử” (32-434, 437).

“Yoga vô tử” của Mật tông Tây Tạng như thế kỳ thực là “tất chết đồng thời phi Yoga”. Bởi vì cái sở đắc từ sự tư duy như thế đều là xuất phát từ vọng tưởng tự ý, cho rằng Ý thức (Tâm giác tri) có thể quán tưởng thân Bản tôn tự nó chắc chắn bất hoại, cho nên Ý thức vô tử. Từ lối tư duy hoang đường này mà dẫn đến tà tư duy về Sắc thân và Ý thức không hai, sau đó lại phái sinh ra quan niệm “Vì Tâm giác tri bất hoại nên Sắc thân bất hoại, vì Tâm giác tri bất hoại nên thân Bản tôn quán tưởng ra bất hoại, cho nên Bản tôn vĩnh viễn không chết, vì thế mà thân tâm không chết”. Sự phái sinh dựa trên vọng tưởng tự ý để sinh ra các loại hư vọng như thế mà nói rằng sau khi thâm nhập tư duy thì nghĩa là chứng được Yoga vô tử.

Thế nhưng, đứng theo góc độ giáo lý mà nói, cái tâm Ý thức có thể thực hiện hành vi quán tưởng đó không phải là tâm không chết thực sự, vì nó chỉ tồn tại có một đời thôi. Ý thức của Tâm giác tri đời này cũng giống như Tâm giác tri của đời trước không thể di chuyển đến đời này, cho nên nó cũng không thể chuyển sinh sang đời sau được. Như vậy, coi cái Tâm ý thức giác tri nhất định có chết, chỉ tồn tại một đời là tâm không chết, từ đó lại dẫn sinh ra các loại ý tưởng không chết, kỳ thực đều là vọng tưởng cả, vì pháp vô tử mà họ nói kỳ thực là pháp tất chết, chỉ có thể đi nhập thai mà không thể trụ trong thai sau khi đã nhập thai, cũng không thể tái sinh khởi, hoàn toàn trái giáo bội lý.

Lại nữa, Mật tông nói câu “khi tôi dụng tâm quán ra Pháp thân Phật, thì Pháp thân của vị ấy liền không hai không khác với tâm linh của tôi” cũng là vọng ngữ, vì Pháp thân chính là Thức thứ tám Như Lai Tạng mà ai ai cũng có. Mà Pháp thân tâm Thức thứ tám này không phải là nhờ quán tưởng mà có (thủ chứng) được, mà buộc phải tham thiền tìm Tâm để xúc chứng Thức này, như thế mới là Pháp thân thực sự.

Lại nữa, Pháp thân là Tâm, không hình không sắc, không thể nào xuất hiện qua Sắc pháp quán tưởng được. Nay Mật tông nói “Pháp thân có thể xuất hiện qua quán tưởng” là hoàn toàn trái ngược với lời Phật dạy, cũng trái ngược với chứng lượng của những người chứng ngộ được Pháp thân Thức thứ tám, thì sao có thể nói là chính pháp được? Cho nên, thuyết “Yoga vô tử” của Mật tông chính là pháp tất chết, tuyệt đối không phải là chính lý của Yoga, chỉ là hư vọng tưởng, không phải là Phật pháp thật sự.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35578


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg