The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 28: Vọng tưởng của Mật tông về quả báo thế gian pháp

 Tiết 28: Vọng tưởng của Mật tông về quả báo thế gian pháp

Về vọng tưởng tham cầu quả báo thế gian pháp của Mật tông, ví như Tông Khách Ba nói thế này: “Người tu lấy kho báu Tất địa, như ‘Sơ phẩm’ nói: ‘Kim Cương hình trong tạng, cần tu tại tâm mình, tu xong là thấy được, các kho báu trong đất’. Là nói trong tâm quán tưởng bảo tạng bình, bên trong có nguyệt luân, trên nguyệt luân có năm bộ chùy, tụng niệm ‘Ban Tạt Ni Để’, tu cho đến thấy tướng. Cái tướng ở đây là tướng có thể nhìn chạm được. Khi đã đắc tướng trạng rồi, tu niệm tụng thâu đêm. Sau đó vãng tưởng nơi có kho báu, cúng dường Bản tôn…và bố thí thức ăn cho quỷ thần. Dùng Kim Cương tỏa chú ấn để buộc lại và bảo vệ kho báu và nơi chốn đó. Sau đó tu niệm tụng, là có thể nhìn thấy kho báu đó, đào đất mà lấy. Hoặc tu Kim Cương chùy ở hư không như thế, tự tu yết ma Kim Cương, tu niệm tụng xong thì đến chỗ nhị Kim Cương rơi xuống, tức là biết ở đó có kho báu. Lại tu Kim Cương chùy trên lưỡi, rồi tu niệm tụng, tự có thể nói lời chân lý: nói chỗ nào đó có (kho báu)” (21-146).

Quán tu như thế, nếu quả thực có thể lấy được kho báu, thì các thượng sư, Pháp vương, Lạt Ma, Nhân Ba Thiết…của Mật tông đâu cần phải tiêu tốn một lượng lớn tiền của đáp máy bay, vất vả thân tâm đến Đài Loan truyền pháp để thu nhận cúng dường. Vì sao các thày Mật tông ngày nay lại rất chăm chỉ đến Đài Loan quán đỉnh, thu nhận tín đồ rộng rãi để nhận cúng dường? Những người lấy cớ vì lòng từ bi mà đến Đài Loan truyền pháp, đó chỉ là lời lẽ trang sức ngụy biện, khó mà che người sáng mắt được.

Lại nữa, nếu tu pháp này quả thực có thể đào được kho báu lớn, thì các thày Mật tông đâu có cần phải âu lo về việc thiếu nguồn tài nguyên để hoằng pháp. Thế mà nay những gì trông thấy lại không phải vậy. Có thể thấy rằng pháp mà Tông Khách Ba nói này chỉ là vọng tưởng, không phải là pháp chân thực. Đồng thời cũng trái ngược với nhân quả ba đời, trái ngược với pháp lý quả báo của bố thí, không phải là pháp mà đức Phật nói.

Tông Khách Ba lại nói rằng:

“Nếu muốn tu Tất địa không chìm nghỉm, có thể đến bên sông suối, hoặc chốn nào mình thích, lấy đồ đựng đầy nước sạch, đặt vào nơi có thể nhìn thấy. Ý tụng ‘Ban Tạt Tạt La’. Nếu như các thủy trần biến thành tướng Kim cương, càng bám dính nhau, kết thành một hình Kim cương. Tu tập tứ tòa, cho đến khi đạt được các tướng có thể nhìn chạm vào. Sau đó đến khi cảm nhận được xúc chạm chân tay thấy rắn như Kim cương. Tại đó tùy ý vẽ một bộ Man đà la luân, sau khi tu nghi quỹ tiền hành, qua một đêm an trú Tam ma địa.

Sau đó, khi muốn đi trên nước, cần hiện khởi Tam ma địa, an trú trong đó, là có thể đi đứng trên mặt nước. Nếu bám duyên các trần hư không, tu thành yết ma Kim cương, biến thành một cầu thang Kim cương, cho đến khi cảm nhận được sự xúc chạm chân tay, tu giống như trước là có thể thăng lên đỉnh núi Tu Di.

Nếu tu trì minh Tất địa, thì phải quảng tu các nghi quỹ như cúng dường, sau khi tu Kim cương vi tế, tụng một trong bốn loại tâm chú như ‘Ban Tạt Đáp Nhạ’. Tùy theo sự khác nhau của các phẩm bộ, quán tưởng trì minh hình thể viên mãn trụ trên nguyệt luân, tu cho đến khi được chạm nhìn tướng. Tiếp đến cúng Bản tôn, qua một đêm an trú trong Tam ma địa. Bản tôn Trí tuệ giáng lâm, trao cho trì minh Tất địa mà mình tu. Rất nhiều Tất địa như thế đều có thể tu hành.

Nếu muốn tu được Tất địa tối thắng, tự tu một hình nào đó trong ngũ Như Lai thân, tụng niệm ‘Ban Tạt Đáp Đô’, quán tưởng có Phật thân vi trần lan khắp hư không giới. Lúc thở ra thì quán tưởng tất thảy đều minh hiển, lúc hít vào thì quán tưởng như bơ hòa vào trong cát, đều nhập vào trong tâm mình mà nhiếp trì lấy nó. Cứ thế không thực hiện các công việc khác, chuyên tinh tu tập, điều phục mọi sự thô nặng của tam nghiệp, tu cho đến khi thấy tướng. Sau khi thấy được tướng, lại vẽ đàn như nói ở trên mà tu, thì thành tựu Bồ Tát trì minh trì Phật hình.

Lại trong Như Lai bộ, nếu trụ trong cái mạn Bản tôn như Kim Cương tát đỏa và thân mình không có gì khác biệt, mỗi ngày tu tránh xa chướng ngại của tam nghiệp, đến khi thở ra thì quán tưởng hình Bản tôn lan khắp hư không giới. Đặc biệt ở các căn và các cảnh giới niệm đến, quán tưởng tất thảy đều là hình tượng Bản tôn. Khi suy nghĩ đến nó, cần niệm rằng: Tất cả những thứ này đều sinh ra từ sự phân biệt, như sự phân biệt đó, nếu quán sát bằng giáo lý, đều không có ở thắng nghĩa. Tiếp đến khi thu tức (hít vào) và thu ý, cần duyên bám lấy Bản tôn.

Tu tập như thế, nếu đắc các tướng trạng như đã nói ở trên, thì phải vẽ đàn cúng dường, trụ định qua đêm, cần tu tụng niệm, Bản tôn giáng lâm trao cho Tất địa thân hình đại ấn của Bản tôn. Khi tu hai thứ này, là nói đến tu dừng mệnh lực. Nếu người nào có sức tu yếu, chưa đắc Tất địa như những gì đã nói đối với hai thứ đó, thế nhưng với các Tất địa như thần thông, thọ mệnh, sức khỏe, thân thể đẹp đẽ thì không cần vất vả cũng có thể thành tựu. Tất địa tu như thế, là Tất địa thắng diệu nhất mà bậc thượng căn trong Yoga bộ hóa độ, tu hành lúc ban đầu” (21-146~147).

Những gì họ tu, họ quán, họ tưởng như thế, đều là hư vọng tưởng. Nếu người nào tu như thế mà có thể thành tựu các pháp thì những người như Pháp vương, thượng sư, Lạt Ma, Nhân ba thiết… của Mật tông ngày nay đều đã có thần thông quảng đại cả rồi, nhưng vì sao cứ phải chờ đến khi họ chết rồi thì mới được các đồ đệ ồn ào tuyên truyền ra ngoài? Vì sao những người có đại thần thông, tha tâm thông như bọn họ lại đều không thể biết được các loại trí tuệ Bát Nhã mà tôi nghĩ trong lòng? Vì sao lại đều không dám nói lại một lời về các pháp nói trong các cuốn sách của tôi vậy?

Nếu đã nói nhờ pháp đó mà tu chứng được cảnh giới đại thần thông, mà các thượng sư kia đều cực kỳ ham thích cảnh giới thần thông, thì tại sao lại không thể tu thành công? Sao không thể hiển hiện một chút thần thông để hàng phục Bình Thực tôi vậy? Sao không thể thị hiện một chút tha tâm thông để biết được Pháp ý mà Bình Thực tôi nói đến vậy? Cho nên mới nói các pháp môn tu hành như cảnh giới thần thông của thế gian mà Tông Khách Ba giảng giải đều là vọng tưởng tự ý của các tổ sư Mật tông cả, không phải là pháp chính tu thần thông trong Phật pháp thực sự.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35574


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg