The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 27: Tam thân Pháp Báo Hóa đầy hư vọng tưởng của Mật tông

 Tiết 27: Tam thân Pháp Báo Hóa đầy hư vọng tưởng của Mật tông

Pháp tu chứng tam thân Pháp Báo Hóa nói trong các Mật kinh, Mật tục của Mật tông đều là hư vọng tưởng, không giống với tam thân Pháp Báo Hóa của Hiển giáo: “Hôm qua giảng Minh quang tức là Pháp thân trí tuệ, cũng tức là Pháp thân đại an lạc, hai thứ này tức là một. Minh quang như thân thể trong không trung, cái thân hữu sắc của nó chính là thân thể do hai thứ khí và ý hòa hợp mà sinh thành, tức là Báo thân. Trong rất nhiều kinh nói Báo thân này là thân thể trí năng. Hay cũng có người nói rằng: ‘Cái thân có thể nhìn thấy được không phải là thân Phật, chỉ là thân trần thế’. Đừng có tin những lời này. Phật nói Báo thân và Phật thân là một thân, có được cái thân thể do hai thứ ảo thân và Minh quang cùng nhập vào thì có thể biến thành rất nhiều hình dạng” (62-341).

Qua đó có thể thấy rằng: hành giả Mật tông cho rằng khi tu đến nhất niệm bất sinh mà phát khởi ra Minh quang, thì Tâm giác tri của anh ta tức là Pháp thân, tức là Pháp thân đại an lạc. Thân thể lúc này tức là Báo thân trang nghiêm, như thế là khác xa với những gì mà Phật nói trong kinh Hiển giáo. Người hiểu được điều này sẽ biết Pháp thân mà Mật tông chứng được chỉ là “Tâm giác tri thường trụ bất hoại – Tâm ý thức ly niệm linh tri” của thường kiến ngoại đạo. Còn Báo thân của Mật tông chỉ là sắc thân hưởng thụ cảm giác dâm lạc trong khi tu Song thân pháp – nhờ có sắc thân này mà được quả báo hưởng lạc, cho nên gọi là Báo thân. Các thày của Mật tông từ xưa đến nay chưa từng chứng được Pháp thân Thức thứ tám mà Phật dạy, cũng chưa từng chứng được Báo thân – Báo thân quảng đại trang nghiêm ở thiên cung tầng trời Sắc Cứu Cánh. Thuần là Pháp thân, Báo thân vọng tưởng do tự mình tư duy, không phải là Pháp thân và Báo thân nói trong các kinh của Phật giáo. Trong Tiết 10, Chương 2 của cuốn sách này, tôi đã nói chi tiết rồi, ở đây không nhắc lại nữa.

Vọng tưởng như thế, Tông Khách Ba cũng không tránh nổi. Trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của mình, Tông Khách Ba viết rằng: “…Cho nên Báo thân vân vân và các tướng của bố thí vân vân là tối thắng, vì các tướng đó thắng diệu hơn các tướng như Bình (quán). Người có đủ các tướng đó là có Không tính nhất thiết chủng (tức là Không tính có đủ tất cả mọi chủng tử). Nếu không có thân tướng thì không thể (hợp tu Song thân pháp với chúng sinh để) lợi ích hữu tình, như vậy nếu không có đại bi thì cũng không thể làm lợi cho tất cả các hữu tình, cho nên mới nói bi mãn (đầy bi). Đại bi vô duyên như hạt châu như ý, đem lại lợi ích cho hữu tình trong vô phân biệt (nhất niệm bất sinh trong Song thân pháp mà không phân biệt). Nói về “không đoạn” tức là nói thân thọ dụng (sắc thân thọ dụng lạc xúc), có đủ các hằng tướng công đức truyền mãi như đã nói ở trên. Vì đại Niết Bàn không trụ tịch diệt và tam hữu (do tu một ngày tám thời nên khiến cho lạc xúc trụ lâu bất đoạn mà không trụ tịch diệt, Tâm giác tri thụ mãi đại lạc này cũng khoog lưu chuyển sinh tử cho nên gọi là đại Niết Bàn), hằng thường không đứt đoạn, không phải là pháp gián đoạn “có lúc chuyển, có lúc không chuyển”. Nói về “vô diệt” là nói Báo thân của anh ta (sắc thân thụ hưởng lạc xúc là Báo thân) không phải là tạm thời trụ tức bèn đoạn tuyệt, tận vị lai tế theo đại bi mà chuyển, và vì các hữu tình không gián đoạn…Thế nhưng không gián đoạn cũng thông với Hóa thân, vô diệt là nói tận vị lai tế không nhập Niết Bàn, cho nên có sai biệt. Thất gia hành nói ba thân là Báo thân viên mãn an lạc không gì sánh được, Pháp thân đại lạc và thể tính đại bi nối tiếp liên tục, đó là nghĩa lý về bất đoạn ở trên… Lại như khi quán đỉnh thứ ba, tự mình là Bản tôn phụ mẫu trụ ở tướng Đẳng chí, quán đỉnh thứ tư cũng trụ như thế. Điều này chứng tỏ quán đỉnh thứ tư có đủ hai chi Báo thân kết hợp” (21-393~395).

Ý Tông Khách Ba ở đây là nói nhục thân ở nhân gian có thể cảm thụ được đại hỷ lạc thụ của quán đỉnh thứ tư, cho nên gọi đó là Báo thân. Cũng có ý nói rằng cảm thụ mãi dâm lạc Đệ tứ hỷ này khi thành Phật trong tương lai, thường xuyên thụ lạc, mãi mãi không đứt đoạn, cho nên nói cái sắc thân thụ nhận cái lạc này chính là Báo thân. Người mà dùng sắc thân chứng được đại lạc Đệ tứ hỷ của quán đỉnh thứ tư, tức là thành tựu được đại nghĩa tức thân thành Phật vậy.

Tông Khách Ba cho rằng: Việc này cũng có thể giải thích rõ được mật ý quán đỉnh thứ tư có đủ hai chi nam nữ song thân kết hợp. Sau này có thể dùng thiên thân quảng đại do quán tưởng mà thành để làm Phật thân, sau khi xả thọ sẽ đem Tâm giác tri và Minh điểm A Lại Da dời thức đến thiên thân đó, dùng thiên thân này ôm Minh Phi thụ nhận mãi đại lạc Đệ tứ hỷ, gọi là Báo thân Phật. Vì làm trang nghiêm bằng thiên thân quảng đại này và sự thường còn mãi mãi của Đệ tứ hỷ nên gọi đó là Báo thân trang nghiêm. Cho nên, cái gọi là Báo thân trang nghiêm của Mật tông không phải là Báo thân nói ở trong Phật pháp, mà chỉ là sắc thân nhân gian tu Song thân pháp để thụ nhận dâm lạc chí cao của Đệ tứ hỷ, sau khi xả thọ thì chuyển y vào thiên thân thụ nhận mãi dâm lạc. Còn về Pháp thân của Mật tông, đó là chỉ Tâm giác tri thụ nhận dâm xúc cực lạc trong Đệ tứ hỷ, chứ không phải là thân Thức thứ tám mà Phật đã nói. Thuyết về Pháp thân và Báo thân như thế khác xa với những gì mà Phật thuyết, thì sao có thể gọi đó là pháp nghĩa của Phật giáo thực sự được?

Tông Khách Ba lại nói thế này: “Khi thực hiện quán đỉnh thứ ba, tự thân hiển tướng Báo thân. Sau đó thì không rời Phật Mẫu, hiện thành tướng phụ mẫu ôm nhau. Tâm trụ ở trong định đó, liễu đạt Câu sinh trí chân thực của chư pháp. Lấy hai thứ đó làm ví dụ, quyết định chắc chắn về cái lý của quán đỉnh thứ tư. Từ việc tu chi phương tiện, cuối cùng tự thân thành tựu Báo thân tướng hảo trang nghiêm và thể tính hai chi kết hợp, chứ không chỉ tu thắng giải là sắc thân của Phật. Tâm này cũng không phải tạm trụ chân thực, mà là tất cả đại lạc và thể tính hai chi vô tự tính ở tận vị lai tế. Chứng tỏ rằng song vận này tức là quán đỉnh thứ tư” (21-396).

Ý của Tông Khách Ba là khi thực hiện quán đỉnh thứ ba, nam đệ tử và nữ thượng sư chân đao thực thương[1] chấp nhận chỉ đạo lâm sàng để hiện tướng Báo thân – tay ôm tướng Minh Phi (Nữ hành giả Mật tông thì tay ôm tướng Dũng Phụ), đã biết Song thân pháp chính là mật ý của tức thân thành Phật, cũng có thể quán tưởng thiên thân quảng đại của mình tay ôm Minh Phi (Nữ hành giả Mật tông thì tay ôm tướng Dũng Phụ) trong lạc xúc của Song thân pháp để thụ nhận đại lạc của Đệ tứ hỷ. Sau khi thụ quán đỉnh thứ ba, từ đó sẽ mãi mãi không rời xa Phật Mẫu (người nữ thì mãi mãi không lìa khỏi Dũng Phụ), thường ôm Minh Phi (mãi ôm Dũng Phụ), mỗi ngày tinh tấn tu tám thời, thường nên “hiện thành tướng phụ mẫu ôm nhau”, mãi mãi “tâm trụ ở trong định đó (an trú mãi ở trong ‘định cảnh’ nhất tâm bất loạn dâm lạc đó)”, mà liễu đạt Câu sinh trí chân thực của chư pháp (từ việc ôm mãi Minh Phi thụ lạc mà nhất tâm trụ ở trong ‘định cảnh’, có thể thông đạt tất thảy pháp đều sinh ra từ Tâm giác tri ‘trong định’ đang thụ hưởng dâm lạc này, trí tuệ đó chính là Câu sinh trí trong Lạc Không bất nhị). Đó chính là Câu sinh trí mà Tông Khách Ba giảng dạy, cũng chính là chi phương tiện mà Tông Khách Ba tu hành – là pháp môn thành Phật phương tiện chỉ Mật tông mới có – tức là nhục thân này thành Phật đạo.

Pháp này không hề có trong Hiển giáo, cho nên Mật tông mới tự kiêu được với Hiển giáo bằng pháp môn này, cười giễu Hiển giáo là tu hành Nhân địa, tự khoác rằng Mật tông mới là tu hành Quả địa, hơn nữa thứ mà thành tựu được chính là Báo thân Phật – tức là nhục thân cảm nhận đại lạc của Đệ tứ hỷ mà thành Phật đạo, chứ không như Hóa thân Phật tu thành bên Hiển giáo, miệt thị tu hành của Hiển giáo không thể thành tựu được Báo thân Phật. Từ lý luận và hành môn “tu hành” như thế, cho nên tất cả các Báo thân Phật và Pháp thân Phật của Mật tông đều là tướng tay ôm người nữ, nhị căn giao hợp, mãi thụ dâm lạc.

Tông Khách Ba lại nói thế này: “Ở đây nói hành tướng ôm giữ Minh Phi không sắc (Đây là nói tướng Bản tôn sắc tượng do quán tưởng không có thân thịt ôm Minh Phi vận hành), có đủ các chi ‘kết hợp, đại lạc, vô tính’ (cố nhiên là có đủ các chi phần như ‘nhị căn kết hợp, đai lạc, không tính không có thân thịt’), bất luận Báo thân có tên nó hay không, thì nghĩa của nó cũng có đủ (cho nên dù là đã có đủ danh nghĩa Báo thân chính thụ Đệ tứ hỷ hay không, thì chính nghĩa của nó đã đầy đủ rồi). Cho nên, quả vị quán đỉnh thứ tư (vì duyên cớ này, sau quán đỉnh thứ ba lại nhập vào đàn quán đỉnh thứ tư, hợp tu Song thân pháp với thượng sư khác giới để nhập vào lạc thụ của Đệ tứ hỷ mà an trú), có đủ thất chi (về “thất chi”, chi tiết xem thuyết minh ở Chương 8 và Chương 9) giống với các nhà khác (người có đủ thất chi giống với những gì mà các nhà khác nói). Quán đỉnh thứ tư đạo vị của bậc thấp kém, từ sau tùy niệm, hiện tướng phụ mẫu Dục thiên không sắc vô phân biệt, cho nên cũng có ở vị Tam ma địa (Cảm thụ dâm lạc cực khoái tình dục mà nhất niệm bất sinh thì gọi là Tam ma địa, cũng gọi là Đẳng chí). Là nói từ sau các (quả) vị đó, người thành tựu lạc bất biến từ đại ấn không sắc, không phải là không sắc nào cũng được (là nói từ sau quán đỉnh thứ tư, khi tay ôm Minh Phi hợp tu Song thân pháp, người mà thông qua Song thân pháp không sắc quán tưởng mà thành tựu đại ấn Đệ tứ hỷ, thành tựu đại lạc bất biến, không phải là bất kỳ không sắc quán tưởng nào cũng được), phải hiện làm Minh Phi tạp mẫu không sắc (bắt buộc phải hiển hiện ra thành các loại Minh Phi không sắc mới được). Khi đó, tuy không phải là thực sự trở thành thiên thân không sắc (lúc này tuy vẫn không phải là trở thành thiên thân không sắc thực sự), nhưng không đợi quan sát, trong lòng tức thì hiện như vậy (nhưng khi hợp tu Song thân pháp, không đợi quán tưởng, trong tâm liền có thể xuất hiện như thế). Cho nên, đại lạc bất biến không sắc như thế đồng nhất với trí thể, hai cái không có phân biệt khác nhau, gọi là quán đỉnh thứ tư. Cho nên không nên thiên chấp “an lạc” hoặc “Không ấn chứng” vân vân là quán đỉnh thứ tư (cho nên không nên chấp bám vào việc đạt được an lạc trong Đệ tứ hỷ, hoặc cũng không chấp bám vào việc ấn chứng không sắc vô nhục thể… là quán đỉnh thứ tư), theo “Đại Sớ” giải thích Câu sinh bất biến tức là Đệ tứ nói rằng: ‘Lìa cái nhân yết ma ấn và trí ấn, tất thảy chủng tử của không hiện tướng minh hiển nhất’, vì nhiều lần tuyên thuyết không sắc hợp rồi (do đã nhiều lần giảng giải không sắc và đại lạc hòa hợp mới gọi là quán đỉnh thứ tư rồi)” (21-401~402).

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Nói Bình quán đỉnh thành tựu Hóa thân (nói sắc thân Bản tôn thiên quán tưởng ra sau Bình quán đỉnh trở thành Hóa thân), quán đỉnh Bí mật thành tựu Báo thân (Sắc thân sau quán đỉnh Bí mật thứ ba trở thành Báo thân), quán đỉnh Trí tuệ thành tựu Pháp thân (Tâm giác tri sau Huệ quán của quán đỉnh thứ tư thành tựu Pháp thân). Báo thân nói ở đây tuy có thể giải thích là Ảo thân, nhưng dựa vào thông nghĩa Mật thừa, đa phần là chỉ lời Phật. Hóa thân như thế là chỉ sắc thân Phật, đẳng lưu nhân của nó là do tu tập Sinh khởi thứ đệ và Thiên yoga của Viên mãn thứ đệ do nó biểu hiện mà thành. Pháp thân, là chỉ Phật ý thường trụ chân thực (Pháp thân là nói Phật ý sau khi tức thân thành Phật ở Đệ tứ quán – là Tâm giác tri nhất tâm thụ lạc)” (21-423).

Tông Khách Ba lại nói: “Các thày như thày Tịch Tĩnh đa phần dựa vào thứ tự của tam Tam ma địa, phối với tự tính, thọ dụng, biến hóa thân. Ý là người mới tu gia hành, mới thành tựu tự lợi, có thể hóa độ thiên chúng, cho nên lập thành thân tự tính hoặc Pháp thân. Cái mà nó sinh ra, đó là phần đầu tiên của việc lợi lạc sắc thân người khác. Thắng Man Đà La vương lập thành thọ dụng thân. Họ ở tại chỗ mình mà ai nấy phóng ra chư thiên, đến thập phương pháp giới để nhiêu ích hữu tình, cho nên Thắng Nghiệp vương lập thành Hóa thân. Nếu như đạt nghĩa này, thì tu ba thân đó là đạo, cho nên tu tam Tam ma địa” (21-491).

Nói về Hóa thân, Báo thân, Pháp thân như thế, đều là dựa vào lạc thụ trong Song thân pháp và hình ảnh quán tưởng để mà nói, đều không phải là sự hóa hiện chân thực như trong các kinh Hiển giáo đã tuyên giảng. Các thày Mật tông từ cổ chí kim đều thường xuyên lấy giả làm thật, cho rằng khi quán tưởng thành công tức là đã thành công trong thực tế, nhưng như thế đều là vọng tưởng cả. Mà Pháp thân, Báo thân, Hóa thân như thế đều chỉ là hình ảnh trong Tâm giác tri, chứ không phải là thân mà chúng sinh pháp giới có thể nhìn thấy được, vì chỉ tồn tại trong cảnh giới quán tưởng của hành giả Mật tông mà thôi. Tu hành quán tưởng như thế là trái với lời Phật nói, trở thành vọng tưởng, sao có thể nói là Phật pháp được? Tông Khách Ba lại còn vọng ngôn nói có thể độ hóa được thiên nhân ở các tầng trời, như thế chẳng phải là nực cười lắm ư!

Tông Khách Ba lại còn nói thế này: “Không sắc (Thân Bản tôn do quán tưởng mà thành vì không có sắc pháp nhục thể cho nên gọi là Không sắc) cuối cùng chính là thân Phật tướng hảo trang nghiêm. Cho nên vô tính không của Không sắc đó tuy là thắng nghĩa (sự không có nhục thể mà tính nó Không của Không sắc đó tuy là thắng nghĩa), Không sắc vẫn là thứ nằm trong Thế tục đế (thế nhưng Không sắc vẫn là thứ được hàm nhiếp trong Thế tục đế). Cho nên hoặc nói là tự tại thường trụ (cho nên có lúc tuy nói Không sắc là pháp tự tại thường trụ), mà không hiểu tại sao phải tu Không sắc. Như trên đã nói Không sắc như khói thượng thượng chuyển y, cho đến cái tướng phụ mẫu Dục thiên của Không sắc lúc chi thứ sáu (cho đến cái tướng phụ mẫu ở Dục giới thiên Không sắc giao hợp thụ lạc lúc ở chi thứ sáu), tức là bất cộng thân nhân ở thân quả Kim Cương (tức là thân nhân không cùng giống với Hiển giáo của thân Kim Cương quả địa Báo thân Phật). Khi đó, duy chỉ hiện tướng thân như vậy (khi nhục thân giao hợp và thụ hưởng Đệ tứ hỷ, chỉ là xuất hiện sắc thân tướng nhục chất như thế), kỳ thực chưa thành thân Không sắc (thân đó thực tế vẫn chưa thành thân Không sắc), vì Sắc giới thô vẫn chưa tận (do Pháp giới thô sắc nhục chất vẫn chưa đoạn tận). Cho nên muốn tu thành thân đó (do đó nếu muốn tu thành Báo thân của Báo thân Phật đó), bắt buộc phải diệt tận sắc thân trần tụ (buộc phải diệt trừ cái sắc thân do vi trần tụ hợp mà thành), như nước biến kim điểm sắt thành vàng (giống như lấy chất nước thần dị biến kim nhỏ xuống sắt để biến thành vàng), từ việc thắt ‘Bồ Đề trong thân’ này khiến cho không lậu tiết như thế (do bế giữ tinh dịch trong thân – Bồ Đề tâm vật chất – khiến cho nó mãi mãi không xuất lậu ra ngoài như vậy) mà có thể tận các thô sắc (mà có thể đoạn tận các loại thô sắc, mới có thể thành tựu Báo thân)…Lại nói: ‘như luyện thủy ngân có thể hóa sắt đá, tùy ý trì giữ đại sắc của họ (tức là tinh hoa của họ) mà trụ, thế nhưng không phải là thô giới, lấy đại sắc đó nhúng vào các sắt đá, sắt liền được tẩy bẩn, đá biến thành bảo ngọc. Tu Bồ Đề tâm như thế có thể hóa Uẩn Xứ Giới và các mệnh căn (tu các pháp nâng tinh dịch Minh điểm lên như thế, có thể hóa trừ thô sắc của Uẩn Xứ Giới và các mệnh căn), tùy ý trì đại sắc của họ mà trụ, nhưng không phải là thô sắc’. Cái lạc bất biến ở chỗ này, chính là ‘Tâm là quang minh’ mà phái Long Mãnh nói. Cái Không trong Lạc Không này là thân thế tục (cái Không trong Lạc Không bất nhị nói ở đây là thân thế tục), Lạc là trí khế nhập thắng nghĩa (cái Lạc trong Lạc Không bất nhị chính là trí tuệ khế nhập thắng nghĩa), hơi có sự khác biệt với Lạc Không nói trong các kinh khác (có chút không giống với cái lý về Lạc Không ở trong các kinh khác). Từ việc thắt Bồ Đề trong thân khiến không tiết lậu (từ việc ghìm giữ tinh dịch Minh điểm trong cơ thể trong Song thân pháp khiến cho nó không xuất ra), khi diệu lạc bất biến viên mãn nhất (khi đạt đến diệu lạc bất biến viên mãn nhất của Đệ tứ hỷ), tất thảy thô giới đều vĩnh tận (tất cả mọi Pháp giới vật chất thô ráp đều diệt tận vĩnh viễn), giới cũng không còn tồn tại (đến chủng tử của nó cũng không còn tồn tại, duy chỉ còn có Lạc Không). Giới và diệu lạc khi đó, quan hệ năng y và sở y, đều đã diệt tận (quan hệ năng y và sở y của pháp giới thô sắc và diệu lạc khi đó đều đã diệt tận). Như cuốn “Quán đỉnh lược tiêu” nói: ‘Quan hệ năng y và sở y, cho đến khi lạc bất biến, đắc tâm bất biến, không còn năng y và sở y’. Cho nên giới trong đỉnh chưa sung mãn (cho đến khi Đệ tứ hỷ thượng thăng đến đỉnh đầu mà tịnh phần của hồng bạch Bồ Đề vẫn chưa đầy), có năng sở y (vẫn có năng y và sở y). Khi đã sung mãn, đắc bất biến rồi, thì không có cái y đó (sau khi nâng lên đến sung mãn tràn đầy, khi chứng được diệu lạc Đệ tứ hỷ mà không còn biến dị nữa, thì không còn có năng y và sở y đó nữa). Cho nên, tại thân Kim Cương không sắc như hồng nghê (do đó với câu nói thân Kim Cương không sắc tựa như cầu vồng), đừng có khởi cái chấp như sữa đầy bụng (không được sinh khởi cái chấp trước ‘như sữa bò đầy bụng’ được)” (21-561~562).

Câu “Cho nên vô tính không của Không sắc đó tuy là thắng nghĩa” mà Tông Khách Ba nói kỳ thực tuyệt đối không phải là thắng nghĩa. Thắng nghĩa là chỉ việc chứng được Tâm Thực tướng của Pháp giới – Thức thứ tám – tâm Như Lai Tạng. Vì chứng được Tâm này, hiện tiền quan sát thấy Pháp giới hữu tình và tất thảy pháp ba đời mười phương đều do Như Lai Tạng này sinh ra, hiển hiện ra, nhờ thế mà sinh khởi trí tuệ Bát Nhã, chiếu kiến Thực tướng. Người tu chứng được như thế mới gọi là Thắng nghĩa. Nay Tông Khách Ba lại đem cảnh giới quán tưởng hư vọng và dâm lạc trầm luân ở Dục giới ra để nói rằng sự cảm nhận dâm lạc và cái Tâm giác tri thụ lạc đó vô hình vô sắc nên gọi là Không tính, gọi đó là thắng nghĩa, hoàn toàn trái ngược với những gì mà Phật nói, đúng là những lời nói “ngôn không cập nghĩa”, đều là hý luận do phàm phu và ngoại đạo hiểu sai về Phật pháp sinh ra.

Tông Khách Ba rơi vào trong vọng tưởng của ngoại đạo như thế, lấy Song thân pháp phối hợp với quán tưởng để mong tu trừ sắc thân thô kệch, cho rằng sau khi tinh tấn tu Song thân pháp trong quán đỉnh thứ tư đạt đến cứu cánh thì có thể thành tựu thiên thân không sắc quảng đại và thường xuyên liên tục được hưởng cái Không và Lạc trong lạc xúc Đệ tứ hỷ, đem “thiên thân Không Lạc lan khắp” do quán tưởng mà thành phối hợp với lạc xúc Đệ tứ hỷ “mãi không thoái thất, mãi không tạm ngừng tạm đoạn” thường trụ trong thân, coi đó là Pháp thân ở Phật địa. Tông Khách Ba Pháp vương sáng lập ra Hoàng giáo, được xưng tụng là nhà cải cách hiện tượng đọa lạc vào tà dâm của Mật tông lại hoàn toàn chưa từng lìa khỏi pháp dâm lạc song thân, chẳng qua chỉ là tăng cường thêm những hạn chế nghiêm ngặt hơn mà thôi. Như vậy, Tông Khách Ba của Hoàng giáo Tây Mật đã hiểu sai về Báo thân, Pháp thân của Phật, bẻ lệch nghiêm trọng hoang đường đến mức độ như vậy, thật khiến cho người ta phải than thở mãi không thôi!

Tông Khách Ba của Hoàng giáo đã hiểu sai về Báo thân của Phật như thế, các phái khác cũng hiểu sai giống vậy: “Trung mạch mà luyện thông rồi, đó chính là Pháp thân Bản tôn đấy! Ngũ luân xuất ra, chính là Báo thân Bản tôn đấy! Sau đó lỗ chân lông cũng thông suốt hết rồi, đó chính là Hóa thân Bản tôn đấy! Anh xem! Nó khoa học hóa biết bao. Nó căn bản là có thứ tự nhất định, có mạch lạc nhất định, có cách làm nhất định đó! Sở dĩ tôi nói ‘thân Tam muội da’ nhất định phải hoàn toàn hóa thành Hồng quang, sau đó mới được coi là tức thân thành Phật, tức sinh tức thân thành Phật đó!” (32-307).

Thượng sư Trần Kiện Dân lại nói thế này: “Ngoài ra còn có một cách làm thế nào để khế nhập Pháp thân. Pháp thân vô ngã, vô tướng, vô hữu, vô dục. Nếu anh muốn biết pháp này, có thể tu Đại thủ ấn, tu Không. Trước hết, phải quán cả vũ trụ và vạn tượng trong đó là không: thấy núi không phải là núi, thấy sông không phải là sông, nhà không phải là nhà, tường không phải là tường, thân không phải là thân. Tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều hóa thành quanh (ánh sáng). Quang này chui vào trong tâm, lại từ tâm chui vào hoa sen, lại từ hoa sen chui vào chữ chủng (Chú thích gốc: một loại chữ cái của Mật giáo, ví dụ như chữ Hồng), đầu tiên bộ phận thứ nhất ở dưới đáy tan chảy hướng lên trên, cho đến bộ phận thứ năm, cuối cùng hóa nhập vào trong một sợi tóc, lại từ sợi tóc này hóa tan hoàn toàn thành không, đó là Pháp thân. Anh khi còn sống đã tu tập nhiều lần, đến khi chết thì pháp tu này vẫn tiếp tục thực hiện. Hành giả biết đó là bộ phận Pháp thân, cho nên khéo bảo trì cảnh giới Tam muội” (32-425).

Đó là dùng sự tưởng tượng “tất thảy pháp đều không, thành không có gì”, tất thảy pháp không, tức là Pháp thân. Như thế là giống với tri kiến của ngoại đạo đoạn diệt kiến, sao có thể gọi là Phật pháp được? Mà Tâm giác tri có thể hiểu biết được tất thảy pháp không trong cảnh giới này lại chính là “thường bất hoại Ngã” mà thường kiến ngoại đạo vẫn chủ trương, lại đọa vào trong tà kiến của thường kiến, có đủ cả thường kiến và đoạn kiến.

Ông ta lại khởi vọng tưởng, coi Minh thể là Pháp thân: “Pháp thân kiến (Chú thích gốc: hoặc gọi là Câu sinh trí kiến): Đó là chính kiến của Đại thủ ấn, nó nhấn mạnh sự vô sinh của Minh thể. Nếu hành giả liên tục bám trụ kiên định vào chính kiến này, không cần dùng đến bất kỳ pháp môn hoặc pháp dược nào, cũng sẽ có thể trực tiếp chứng được Pháp thân” (38-456). Đã coi tất thảy pháp không là Pháp thân thì không nên coi Câu sinh trí (“trí tuệ” của Tâm giác tri thụ nhận dâm lạc Đệ tứ hỷ) là Pháp thân nữa, vì trước sau mâu thuẫn với nhau, bởi Pháp thân thì không nên có hai loại.

Ông ta lại nói thế này: “Thân trí tuệ không phải là cái thân bên ngoài thân thể, mà là trong cơ thể tương đương vị trí của quả tim có một cái thân. Không phải là nói cái tâm trong tâm lý học hay là tâm trong triết lý, mà chắc chắn là chỉ quả tim sinh lý đó! Đó chính là quả tim thịt này, vị trí của quả tim bằng thịt này có một thân Trí năng” (32-224). Những lời lẽ như vậy lại trái ngược với những gì đã nói ở trước đó, tự sinh mâu thuẫn: Đã là chỗ quả tim thịt có một thân trí tuệ thì không nên coi Câu sinh trí kiến là Pháp thân như đã nói ở đoạn trên nữa mới phải.

Ông ta lại nói: “Thân trí tuệ vẫn phải quán Bản tôn. Còn về thân Tam ma địa, thì hoàn toàn là phải quán cái Không tính định này, tất cả đều biến thành Không tính. Cho nên phải quán chữ chủng tử từ dưới lên trên, một bộ phận co rút tiến vào một bộ phận khác, rút hết cái này đến cái khác, rút từng cái từng cái, co rút hết đến vùng đầu chót trên đỉnh đầu cao nhất, sau đó tiến vào Không tính Tam ma địa (tiến vào “Tam ma địa” tất thảy pháp đều không). Tam ma địa này chính là Pháp thân. Cái này kỳ thực là có quan hệ của địa, thủy, hỏa, phong, không, thì đem Ngũ trí, Ngũ đại tất tật co rút lại hết, từ quan hệ của Tam ma địa mà co rút tiến vào bên trong Không tính, chính là cái của pháp giới Chân Như. Cho nên đó gọi là thân Tam ma địa, cho nên là phối với Pháp thân. Khi chết, anh ta từng cái đều là rút. Một rút, một rút, rút, rút, rút, rút, cái thô thì co rút đến tế, cái to thì co rút đến nhỏ, cuối cùng rút đến hình dạng của lỗ chân lông, sau đó thì không có gì nữa. Đó chính là quy về cảnh giới Chân Như của Không tính thực sự rồi, cũng không đắc Ngã chấp, cũng không đắc Pháp chấp, cũng không đắc phiền não, cũng không đắc cái gì khác nữa” (32-230).

Lại nói rằng: “Anh ta dùng khí, mạch, Minh điểm của Ngũ trí, thêm vào đó là Tứ sơ quán, Tam muội da Bản tôn, nhị quán, tu khí công bằng Bản tôn; Ngũ trí, tứ hỷ và định lực của tứ không thành Báo thân Phật hỷ; Định lực của tứ không, sau đó thì thành Báo thân Phật. Sau khi ở Tâm luân hiện ra, sau đó lại mở cả bốn luân còn lại, thì thành Ngũ phương Phật. Sau đó nữa thì trong các lỗ chân lông tất cả đều đầy các Phật nhỏ đấy! Đó chính là Hóa thân Phật. Ví dụ trong lỗ chân lông đều đầy các Hóa thân Phật giống như Báo thân Phật, vậy thì cái thân Tam muội da này không cần trà tỳ nữa, vì anh ta đã biến rồi mà. Mỗi một lỗ chân lông đều có một Hóa thân, anh ta tuyệt đối không cần phải hỏa thiêu. Tôi đã tìm ra đáp án của vấn đề, tôi nghĩ ngay cả Đạt Lai Lạt Ma cũng không có cách giải quyết vấn đề này. Vấn đề này rất lớn mà! Nếu như không tìm ra được đáp án cuối cùng này, thì anh không có cách nào để tức thân thành Phật cả. Muốn tức thân (ngay thân này) thì nhất định phải là bất tử đó! Người khai Trung mạch không có nghĩa là đả thông được Ngũ luân rồi. Trước hết phải khai mở Trung mạch, sau đó từ Trung mạch mở tiếp Ngũ luân, sau đó từ năm thông đến bảy vạn hai ngàn tiểu mạch. Cho nên Trung mạch là Pháp thân, Ngũ luân là Báo thân, bảy vạn hai ngàn tiểu mạch chính là Hóa thân” (32-234).

Như vậy, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân mà các phái của Mật tông tu đều là tu qua quán tưởng và trong Song thân pháp, hoàn toàn không dựa vào lời Phật dạy trong các kinh Đại thừa là tu từ Bát Nhã, thiền định, đến Nhất thiết Chủng trí, pháp đạo của họ khác xa với pháp Đại thừa và Tiểu thừa, hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp chân chính. Căn bản mà nói, hoàn toàn chỉ là pháp ngoại đạo, thế mà lại lớn tiếng nói pháp của mình là hành môn cứu cánh thực sự trong Phật giáo, lại tự nói là siêu thắng hơn cả pháp môn phương tiện của Phật Thích Ca bên Hiển giáo, điên đảo đến như vậy, không thể so sánh gì được.

Mật tông lại vọng cho rằng tu hành Mật pháp có thể thành tựu ngàn vạn Hóa thân: “Khi tu, bên trong thoạt đầu nhìn thấy dương diệm (ánh nắng mặt trời) như ánh sáng ngũ sắc, sau đó thì nhìn thấy nguyệt quang, tiếp đến thấy nhật quang, rồi thấy nhật nguyệt hòa hợp, thế là bên trong liền cảm thấy đen tối (hắc ám), đó đều là do tác dụng của khí và tâm. Khi đó, trong tâm quán tưởng Bản tôn có ba mươi hai tướng, có tám mươi tướng hảo. Khi ba thứ nguyệt quang, nhật quang và sự đen tối lần lượt xuất hiện, tâm cần tịch tĩnh, không được có chút tơ tưởng đến các thứ lạc của thế tục. Cho dù có thiên tiên mỹ nữ xuất hiện nhìn ngắm thì tâm cũng không được xao động. Người trẻ thì coi như là em gái, người lớn tuổi thì coi như là mẹ, không được khởi niệm dâm dục nào đâu đấy. Người tu pháp trong lòng không được suy nghĩ đến hình tướng người nữ, không được sinh chút lòng dâm nào, cũng không được để tinh điểm tiết ra ngoài mà tự tổn thương đến nguyên thần. Tự mình phải như nhìn trong gương vậy, thấy mình trong gương biến thành hình dạng của Không Hành Mẫu. Nếu như sinh khởi niệm tốt xấu đối với hình tượng này thì sẽ thành “châu lý” (tiếng Tạng dịch nó là Ảo thân) của nghi tâm, cũng còn gọi là Ảo thân không thanh tịnh. Còn về Ảo thân thanh tịnh thì lại là chuyện khác, không phải là Trung âm thân thay thế thành Phật, mà là Không An không hai không khác. Tu tập tâm và khí của mình lâu ngày, thì mệnh sẽ từ Phạn môn chui ra, thành thân Không Hành Mẫu, cao chừng hơn một thước. Ảo thân này có thể phân thân thành ngàn vạn, đều có ba mươi hai tướng, tám mươi chủng hảo. Lúc này trong tâm cực kỳ khoái lạc, không còn chút nghi tâm nào. Trước đó mà có nghi tâm cho nên tâm không thanh tịnh, nay không còn nghi tâm nên tâm cực thanh tịnh, đó chính là cái đạo lý của Mật tông vô thượng yoga vậy” (62-220).

Nói không tham nữ sắc của người khác như vậy đúng là những lời nói không thật lòng. Vì sao vậy? Vì theo như Tông Khách Ba nói, khi thượng sư thực hiện quán đỉnh thứ tư, số lượng Minh Phi mà thượng sư cần dùng để hành dâm nhiều đến 9 người thì sao có thể nói thượng sư Mật tông không tham con gái nhà người khác được? Tình hình tạp giao của các nhà đại tu hành từ cổ chí kim của Mật tông cực kỳ nghiêm trọng, thậm chí nói ngay cả vợ, con trai, con gái, em gái, dì, mẹ…của mình đều có thể dùng để làm Minh Phi, để cùng tu Song thân pháp, để mà Lạc Không song vận, lại còn tâm tâm niệm niệm cầu chứng Đệ tứ hỷ để thành Phật; Ngay cả Tông Khách Ba cũng nói mỗi ngày phải tu tám thời (16 tiếng), cho đến phải tinh tấn tu hành cả tháng, cả năm, cả kiếp, mãi mãi không ngừng nghỉ. Thế mà nay nói không tham thiên tiên mỹ nữ, người đẹp thế gian, thế chẳng phải là những lời lươn lẹo lắm ư!

Cái tâm bất tịnh như vậy mà nói là tâm thanh tịnh, có khác gì bịt mắt mũi người khác mà nói, thực chẳng có nghĩa lý gì cả. Cái tâm đại tham “tinh tấn tu Đệ tứ hỷ, cho đến tu tám thời vân vân” như thế, sao có thể chứng được Báo thân quảng đại trang nghiêm tuyệt đối thanh tịnh được? Bởi lẽ Báo thân mãi mãi lìa xa khỏi Dục giới ái, cũng mãi mãi thoát ly khỏi Sắc giới ái, cho đến giải thoát hoàn toàn khỏi Vô sắc giới ái. Cho nên, những gì mà Mật tông nói đều trái với sự thực, cũng trái với lời Phật, tuyệt đối không phải là Phật giáo.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Thực hành thực tế chứ không phải là quán tưởng.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35573


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg