The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 22: Mật tông lấy giả làm thật

 Tiết 22: Mật tông lấy giả làm thật

Pháp môn tu hành của Mật tông đều là tông phái vọng tưởng coi giả tưởng quán là pháp chân thực, tuyệt đối không phải là pháp môn tu hành của Phật giáo. Mà rất nhiều pháp quán giả tưởng này đều là lấy Đệ tứ hỷ dâm lạc của Song thân pháp làm tư tưởng nòng cốt, lấy lý luận và hành môn của Song thân pháp để quán xuyến hết. Các ví dụ thực tế nêu ra trong Chương 2 như “Thiên yoga” quán tưởng mình biến thành thiên thân, kỳ thực không phải là quán tưởng thành công thiên thân này xong thì có thể thành tựu được thiên thân quảng đại thật sự. Cho nên, việc Mật tông lấy quán tưởng thiên thân quảng đại làm thân Phật khi “thành Phật” trong Song thân pháp sau này chỉ là hư vọng tưởng lấy giả làm thật, vì “thiên thân” mà họ quán tưởng ra chỉ là Nội tướng phần của chính anh ta mà thôi, chứ không phải là thành tựu thiên thân thực sự, vì sau này “thiên thân” thành tựu khi tu Song thân pháp xong không hề tồn tại, chỉ có ở trong cảnh giới quán tưởng của mình thôi chứ không phải là hiện thực.

Cũng giống như việc thông đạt trong quán tu Trung mạch, quán tu Minh điểm trong Trung mạch có thể lên xuống tự do như ý mà không dẫn đến sai lầm xuất tinh, rồi coi cái Minh điểm quán tưởng ra ấy coi là A Lại Da thức cũng là vọng tưởng. Vì những gì họ quán tưởng ra chỉ là cảnh giới Nội tướng phần, chẳng khác gì Tướng phần trong mơ. Người đời mơ tỉnh đều biết cảnh giới trong mơ là hư ảo. Nay Mật tông lại coi Tướng phần của Minh điểm có được nhờ quán tưởng giống hệt như trong cảnh giới mơ mộng là pháp chân thực, rồi định vị cho Minh điểm là A Lại Da thức trong Hiển giáo, như thế là lấy giả làm thật, lấy cảnh giới Tướng phần của Minh điểm trong pháp quán tưởng thay thế cho Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật tuyên thuyết, tức là một thứ hư vọng coi giả làm thật, tức là những kẻ phá hoại chính pháp của Phật giáo.

Bảo bình khí cũng như vậy, đều là vọng tưởng trong tu chứng thiền định, vọng coi Bảo bình khí có thể thành tựu định cảnh của Đệ tứ thiền, coi cảnh giới có được khi bế khí trong vài phút ngắn ngủi là đã thực sự chứng được thiền định mà Phật dạy, tức là vọng tưởng lấy giả làm thật.

Còn về Đẳng chí mà Mật tông nói cũng là vọng tưởng mà thôi. Cái gọi là “Đẳng chí” là chỉ hành giả thiền tọa tu định, tiến vào trong cảnh giới Sơ thiền nhất tâm bất loạn, tránh xa Dục giới ái, cho đến khi tiến vào Đẳng chí vị của Tứ thiền, không tiếp xúc với Ngũ trần, không sinh khởi ý niệm cực vi tế (chi tiết xin xem trong phần vấn đáp tại hiện trường, phần Phụ lục cuốn sách kết duyên “Cam lộ pháp vũ”, ở đây không nhắc lại), hơi thở đoạn, mạch đập dừng, trụ lâu trong cảnh giới không còn tiếp xúc với Ngũ trần. Còn Đẳng chí trong Mật tông là nói việc nhất tâm bất loạn trong cơn cực khoái tình dục sau khi hành dâm, trụ lâu trong ly niệm linh tri “Lạc Không bất nhị” để chứng nhập vào cảnh giới tạm ngừng thở khi đạt đại lạc Đệ tứ hỷ, gọi đó là chứng được Đẳng chí thiền định, kỳ thực hoàn toàn không liên quan gì đến Đẳng chí trong thiền định cả. Mật tông với việc đạt được Đẳng chí vọng tưởng đó, tự cho rằng mình quả thật đã chứng được Đẳng chí, nói đó là “thiền định Phật giáo”, dùng việc đó để lòe người khác, tông khác, phái khác, thật đúng là Mật tông lấy giả làm thật vậy.

Lại nữa, “Phật Bồ Tát” được thỉnh mời đến để gia trì cho hành giả, kỳ thực đều là “hình tượng Phật Bồ Tát” do sơn tinh, quỷ thần, la sát, dạ xoa…hóa hiện ra, thế nhưng các thày Mật tông lại đều coi giả làm thật, cho rằng đúng là có Phật Bồ Tát đích thân đến hóa hiện dạy bảo, thế là bị đám quỷ thần đó trùm đầu lừa bịp, dựa vào pháp môn tà tri, tà kiến do đám quỷ thần đó truyền lại để tuyên thuyết, để tu, để truyền, để chứng, đều là rơi vào trong tri kiến và cảnh giới của quỷ thần, làm gì có pháp nào là Phật pháp thực sự? Cho nên mới nói Mật tông là thứ tôn giáo lấy giả làm thật.

Thiên yoga, Bảo bình khí, Trung mạch, Minh điểm…như thế, tất cả các pháp môn tu hành khác không có cái nào là không lấy giả làm thật. Sau khi lấy giả làm thật rồi, họ lại còn hạ thấp Hiển giáo để tôn sùng Mật tông, nói Phật Tỳ Lô Giá Na – Pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni hậu đãi riêng Mật tông mà truyền cho pháp tức thân thành Phật còn thắng diệu hơn cả bên Hiển giáo. Họ đảo lộn gốc ngọn như thế để sùng Mật ức Hiển, nhằm thu hút hết tài nguyên của Phật giáo. Đồng thời sờ mó nắn bóp các đệ tử Phật khác giới, cho đến hành dâm, nói hoa mỹ rằng đó là quán đỉnh bí mật, quán đỉnh thứ tư, tức thân thành Phật. Sau khi lấy giả làm thật xong thì dùng để thay thế Hiển giáo, nói tà pháp của Mật tông là Phật pháp cứu cánh thực sự, mận thay đào chết – dần khiến cho Phật giáo thực sự bị diệt trong tay của Mật tông – cuối cùng đại diện cho Phật giáo bằng Mật tông của pháp ngoại đạo.

Những hành vi lấy giả làm thật để sùng Mật ức Hiển của Mật tông mà cuốn “Cuồng Mật và Chân Mật” này nêu ra, họ tự tôn cao chứng lượng Phật pháp bằng những lời lẽ hư vọng của mình, có thể nói là vô lượng vô số, không sao kể xiết. Nếu hành giả đọc những Mật kinh, Mật tục của các thày Mật tông từ cổ chí kim và cả các trước tác xưa nay sẽ tự biết những gì tôi nói không ngoa chút nào, sẽ biết những gì tôi nói không có một câu nào vu oan cho Mật tông cả. Cho nên, ở tiết này chỉ lược qua như vậy, không cần nhắc lại gì nhiều để tiết kiệm chương tiết, vì nêu ra mãi cũng không hết được.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35568


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg