The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 18: Tà kiến tứ đại tương dung của Mật tông

 Tiết 18: Tà kiến tứ đại tương dung của Mật tông

Các phái của Mật tông đều có chung tà kiến tứ đại tương dung (hòa nhập vào nhau), trái với lời Phật nói: “Hai mươi lăm mạch khí tụ đến hòa nhập vào Trung mạch, khi địa nhập vào thủy, cơ thể cảm thấy vô lực; khi thủy nhập vào hỏa, miệng mũi khô ráo, tứ chi dần lạnh (Chú thích gốc: Khi người ta chết, ai lạnh đầu trước thì chắc chắn sẽ xuống địa ngục, ai lạnh chân trước nhất định được lên đường thiện…); khi hỏa nhập vào phong, khí ấm tứ chi toàn thân đều mất hết; khi phong nhập vào thức, khí thở ra nhiều, khí hít vào ít, hơi thở yếu ớt tắt dần, trí thức hoàn toàn bị diệt. Muốn biết các quá trình này thì phải tu trì theo pháp” (62-278, 279).

Thuyết hòa nhập vào nhau như thế, trong các Mật tục của Mật tông đâu đâu cũng thấy, chỉ là một thứ vọng tưởng. Thế nhưng, thực tế thì tứ đại không thể dung nhập vào nhau, vì nguyên tố cực vi của tứ đại đều mãi mãi bất diệt, không chỉ pháp Đại thừa nói vậy mà trong pháp Nhị thừa cũng nói như thế. Trong “Kinh Lăng Già”, Phật có nói đến “Đại chủng tính Tự tính”, cũng nói về ý này. Trong các kinh Tam thừa, Phật cũng không hề nói chủng cực vi tứ đại có thể hòa nhập vào nhau, mà nói cực vi tứ đại xưa nay bất diệt, nói duy chỉ có Căn bản thức A Lại Da mới có thể chấp trì cực vi tứ đại, chứ bảy thức đầu đều không thể chấp trì được. Cho nên, thuyết nguyên tố tứ đại hòa nhập vào nhau mà chuyển hóa lúc lâm chung của Mật tông chỉ là vọng thuyết, không phải là Phật pháp.

Trong các kinh, Phật chưa từng nói sau khi mệnh chung thì tứ đại hòa nhập vào nhau, mà nói sau khi A Lại Da dần dần xả bỏ tứ đại, sinh ra sắc thân vật chất vi tế của Trung âm dựa trên vật chất vi tế do sắc thân đời này sinh ra, trở thành thân đầu sinh nhập thai, trước sau chưa hề nói tứ đại tương dung. Đó chỉ là thuyết do các thày Mật tông tự mình phát minh ra, không liên quan gì đến Phật pháp cả.

Mật tông thường rơi vào trong “tương vọng tưởng” của thế gian, luôn lấy việc thủ chứng thế gian pháp làm chính tu hành của Phật pháp, lại vọng tưởng cho rằng vật chất có thể chuyển hóa thành trí tuệ: “…Nếu dương khí động rồi, thuốc lấy đủ rổi, đan điền ấm rồi, đó là Đan điền hỏa chứ không phải là Chuyết hỏa. Chuyết hỏa là phải phối hợp với hồng Bồ Đề phần dưới của Trung mạch (phải phối hợp với hồng Bồ Đề – tức là tịnh phần dâm dịch người nữ sinh ra từ phần chót Trung mạch trong hạ thể của Minh Phi). Nếu nó phát động, không chỉ nóng ấm, mà còn có quang minh noãn lạc, thậm chí phát sinh trí tuệ. Cho nên, khởi đầu thì nhỏ hơn Đan điền hỏa mà sau khi khuếch đại thì lớn hơn Đan điền hỏa. Người tu Chuyết hỏa thành tựu, xương cốt địa đại toàn thân đều hóa thành trí tuệ. Tuyết ở trên đỉnh núi nơi anh ta ngồi cũng phải tan chảy” (32-461).

Người học cần biết rằng: Trí tuệ sinh ra từ chứng nghiệm đạo Giải Thoát Nhị thừa của bảy tâm đầu gọi là Giải thoát huệ, Vô sinh nhẫn; Trí tuệ sinh ra từ chứng nghiệm Thức thứ tám Như Lai Tạng của bảy thức đầu gọi là Bát Nhã huệ, Vô sinh nhẫn của Đại thừa, Vô sinh pháp nhẫn, Nhất thiết Chủng trí. Hai loại trí tuệ này là thứ mà người tu học Phật pháp phải cầu chứng. Sự tu chứng trí tuệ Bát Nhã đều phải dựa vào sự hiện hành của bảy thức đầu mới có, chứ không phải là tách rời bảy thức đầu mà có thể có bất kỳ trí tuệ nào hiện hành. Nay Mật tông lại nói xương địa đại có thể biến hóa thành trí tuệ thông qua quá trình tu hành, chứ không phải có được nhờ sự chứng ngộ của bảy thức đầu, tức là người chứng ngộ đã chết rồi, thi thể anh ta cũng có trí tuệ, như thế thì đâu phải là thi thể nữa, vì nó có trí tuệ mà, bởi người có trí tuệ thì nhất định phải có tâm thức. Cho nên, các thày Mật tông không biết, cũng không chứng được chân nghĩa của Phật pháp, vọng giải, vọng thuyết Phật pháp dựa trên ý tưởng của mình. Hiện tượng dẫn dắt sai lầm người học này là cực kỳ nghiêm trọng. Phàm là người học Phật giáo chúng ta đều nên hiểu rõ sự thực này, chớ lại bị họ lừa dối, như thế thì mới có thể nhập vào chính đạo Phật giáo thực sự được.

Trong “Đại tập kinh” Phật cũng từng nói: “Thức trí không lìa nhau, hòa hợp ta thường nói”. Lời Phật nói đó vẫn còn trong kinh, nay có thể tra cứu được. Điều này đã sớm chứng tỏ rằng: Tất cả mọi trí tuệ đều phải dựa vào tâm thức mà có, nó hòa hợp với tâm thức. Đó là điều mà Phật thường nói, chứ không thể nào lìa khỏi tâm thức mà vẫn có trí tuệ được. Nếu hành giả Mật tông đã vì thọ tận mà chết, sau khi Bản thức của anh ta rời khỏi thi thể rồi, thì không thể còn sót lại trí tuệ tồn tại trong thân xác đó nữa, càng không thể nói rằng sau khi chết “xương cốt địa đại toàn thân đều hóa thành trí tuệ” được, hoang đường không gì so sánh nổi. Nếu như thây cốt của anh ta đều hóa thành trí tuệ, thì trong xương anh ta lẽ ra vẫn phải có thức tâm trụ trì, tức là thây cốt đó vẫn còn là hữu tình, không phải là thây cốt vô tình nữa.

Nếu nói rằng xương cốt sau khi hóa thành trí tuệ đã biến thành trí tuệ mà biến mất, thì lẽ ra trí tuệ đó của hành giả Mật tông là do thây cốt biến hóa mà thành, không phải là thứ trí tuệ nhờ tu học Phật pháp mà chứng được, cũng không phải xương cốt của anh ta biến hóa vọng tưởng mà thành tựu. Cho nên, thuyết tứ đại tương dung, thuyết xương địa đại có thể hóa thành trí tuệ đều là vọng tưởng tự ý ngoại đạo của các thượng sư Mật tông, tuyệt đối không có chỗ nào đáng tin, dù chỉ là chút xíu.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35564


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg