The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 4: Truyền dạy về giải thoát của Trung Hữu -2

 Sau khi thành khẩn nhiệt tâm tin tưởng chí thành cầu khấn như thế xong, thì ông/bà sẽ từ trong Hồng Quang luân tiến vào trong tâm hải của Bảo Sinh Như Lai của phụ mẫu thanh tịnh mà chứng được Phật quả Báo thân, an trú ở Phật thổ Chúng Bảo Trang Nghiêm ở Nam phương’”. (139-57~59)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ : ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Hãy tịnh tâm lắng nghe. Hôm nay nhằm ngày thứ tư, sẽ có hồng quang bản sắc của Hỏa đại chiếu đến. Cùng lúc đó, từ Thế giới Cực Lạc ở Tây phương có Phật A Di Đà toàn thân màu đỏ, tay cầm liên hoa diệu bảo, ngồi trên bảo tòa Khổng tước, ôm Phật Mẫu áo trắng, dắt theo Quan Âm Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát cùng quyến thuộc cầm đàn và hai vị nữ Bồ Tát cầm đèn, tổng cổng thân sáu vị Bồ Đề, từ trong Hồng Quang luân phóng quang, chiếu đến trước mặt ông/bà. Bản sắc của Thụ uẩn làm Diệu quan sát trí quang này phát ra từ trong tâm của Phật A Di Đà phụ mẫu thiêng liêng, chiếu thẳng đến tâm ông/bà, ánh sáng đó màu đỏ, nhấp nháy trong suốt, lại có các loại quang cầu và quang cầu vệ tinh của nó chiếu rọi xen giữa, cực kỳ choáng ngợp, khiến ông/bà khó có thể nhìn thẳng được…Hãy tin tưởng vào hồng quang màu đỏ chói mắt đó đi! Hãy nhất tâm đảnh lễ tin theo Phật A Di Đà thân làm phụ mẫu, và chí thành khẩn cầu, thực hiện lời cầu khấn thế này:

Lưu chuyển sinh tử đều vì ác nghiệp tham tiếc mà có,

Nhân lúc Diệu quan sát trí quang này chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Đại Giác A Di Đà Phật dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu áo trắng thiêng liêng bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở tất thảy Phật địa viên mãn.

Sau khi thắm thiết tin tưởng cầu khấn như thế xong, thì ông/bà sẽ tiến vào trong tâm của A Di Đà Phật Phụ mẫu thiêng liêng thân ở trong Hồng Quang luân mà chứng được Phật quả Báo thân, an trú ở Phật thổ Thế giới Cực Lạc ở Nam phương’”. (139-59~61)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ năm: ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Hãy nhất tâm lắng nghe. Đến ngày thứ năm này, sẽ có lục quang bản sắc của Phong đại chiếu đến ông/bà. Vào lúc này, có Bất Không Thành Tựu Như Lai từ Phật thổ Vô thượng Diệu hành Thành tựu ở phương Bắc toàn thân màu lục, tay cầm Kim Cương chùy chữ thập, ngồi trên bảo tòa Giác Ưng, ôm Phật Mẫu Trinh Tín Độ Mẫu, dắt theo Lặc Sĩ Kim Cương Thủ Bồ Tát và Trừ Cái Chướng Bồ Tát cùng quyến thuộc là hai vị nữ Bồ Tát phun hương thơm và cầm đường, tổng cổng sáu vị trí thân Bồ Đề, từ trong Hồng Quang luân phía sau phóng quang, chiếu đến trước mặt ông/bà. Bản sắc của Hành uẩn này làm lục quang của Thành sở tác trí, nó trong suốt, huy hoàng chói mắt, được trang sức bằng các loại quang cầu và quang cầu vệ tinh, phát ra từ trong tâm của Bất Không Thành Tựu Như Lai phụ mẫu thiêng liêng, chiếu thẳng đến tâm ông/bà. Ánh sáng đó cực kỳ sáng rọi, khiến ông/bà dường như khó có thể nhìn thẳng được. Đó là sức mạnh trí tuệ vốn có của Trí tính của ông/bà... Ông/bà nên chí thành tin theo ánh sáng lục chóa mắt đó, nhất tâm nhất ý quán tưởng phụ mẫu thanh tịnh Bất Không Thành Tựu Như Lai, và thực hiện lời cầu khấn như sau:

Lưu chuyển sinh tử đều vì ác nghiệp đố kỵ mà cảm ứng,

Nhân lúc Thành sở tác trí quang này chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Bất Không Thành Tựu Như Lai dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu Trinh Tín Độ Mẫu bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở tất thảy Phật thổ thành tựu.

Sau khi chí thành cầu khấn như thế xong, thì ông/bà sẽ tiến vào trong tâm hải của phụ mẫu thanh tịnh Bất Không Thành Tựu Như Lai thân ở trong Hồng Quang luân mà chứng được Phật quả Báo thân, an trú ở Phật thổ Vô thượng Diệu hành phương Bắc’”. (139-62~63)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ sáu: ‘…Nếu như ông/bà biết được rằng trí quang của Ngũ phương Phật đều phát ra từ tịnh Thức của chính mình, thì ông/bà sớm đã khế nhập vào trong Hồng quang luân của bất kỳ vị Phật nào và chứng được Phật quả Báo thân rồi. Nay hãy tịnh tâm chú ý, sẽ có Ngũ phương Phật quang gọi là “ánh sáng Tứ trí khế hợp” đến chiếu rọi vào ông/bà. Ông/bà hãy khéo hiểu nó. Ông/bà XXX tôn quý ơi! Đến nay là ngày thứ sáu, sẽ có tứ sắc của bản cảnh Tứ đại nhất tề đến phóng quang. Vào lúc này, từ Phật thổ Bá Chủng trung ương có phụ mẫu thanh tịnh Tỳ Lô Giá Na Phật và Bồ Tát tùy tùng đến phóng quang vào ông/bà. Từ Tối Thắng Lạc Thổ phía trên có phụ mẫu thanh tịnh Kim Cương Tát Đỏa Phật và Bồ Tát tùy tùng đến phóng quang vào ông/bà. Từ Phật thổ Chúng Bảo Trang Nghiêm phương Nam, có phụ mẫu thanh tịnh Bảo Sinh Phật và Bồ Tát tùy tùng đến phóng quang vào ông/bà. Từ Phật thổ Liên Hoa thế giới Cực Lạc phương Tây, có phụ mẫu thanh tịnh A Di Đà Phật và Bồ Tát tùy tùng đến phóng quang vào ông/bà. Từ Phật thổ Vô thượng Thành tựu Diệu Hành ở phương Bắc có phụ mẫu thanh tịnh Bất Không Thành Tựu Như Lai và Bồ Tát tùy tùng từ trong Hồng quang luân đến phóng quang vào ông/bà. Ông/bà XXX tôn quý ơi! Bên vòng ngoài ngũ vị Thiền Phật và Phật Mẫu này, có bốn vị Phẫn nộ Thánh Tôn giữ cửa:…; Lại có Phật của sáu đạo:…; và Phật Pháp vương của địa ngục đạo…cùng đến phóng quang vào ông/bà. Lại có Phổ Hiền Phật Phụ và Phổ Hiền Phật Mẫu: Phổ Hiền Vương Như Lai và Phổ Hiền Vương Phật Mẫu tổ tiên vĩ đại của tất thảy chư Phật – Phật Phụ thanh tịnh và Phật Mẫu thanh tịnh cũng đến phóng quang vào ông/bà. 42 vị Thánh Tôn toàn năng kể trên – đều phát ra từ tâm ông/bà, đều sinh ra từ tâm từ ái của ông/bà – cũng đến phóng quang vào ông/bà. Ông/bà nên khéo hiểu lấy. Ông/bà XXX tôn quý ơi! Tất cả Phật cảnh kể trên, không phải đến từ ngoài tâm của ông/bà – mà đều xuất phát từ bốn bộ phận của ông/bà, bốn bộ phận này cộng với bộ phần trung ương, tức là Phật thổ ngũ phương. Chúng đều phát ra từ nội tâm của ông/bà, đều đến phóng quang chiếu xạ vào ông/bà. Mà các vị Thánh Tôn kể trên cũng không đến từ chỗ khác. Họ từ vô thủy kiếp đến nay đã tồn tại ở trong công năng trí tính của chính ông/bà rồi, vì thế, ông/bà nên hiểu như vậy mới phải…Phải chí thành nhất tâm kính tín phụ mẫu thanh tịnh chư Phật ngũ phương, và thực hiện lời cầu khấn như sau:

Lưu chuyển sinh tử đều vì ác nghiệp ngũ độc mà cảm ứng,

Nhân lúc Tứ trí này khế hợp chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Phật Phụ Chinh Thắng ngũ phương dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu thanh tịnh ngũ phương bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được thoát ly khỏi đường sáng bất tịnh của lục đạo

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở Phật thổ thanh tịnh ngũ phương.

Sau khi cầu khấn như thế xong, thì ông/bà sẽ nhận chứng được ánh sáng nội tại của mình, dung hợp làm một với Tự tính của mình mà chứng Phật quả: Chỉ cần chí thành tin theo, dù là người bình thường cũng có thể nhờ liễu ngộ Tự tính mà được giải thoát; dù là kẻ vô cùng thấp kém ti tiện, cũng có thể dựa nhờ vào sức mạnh cầu khấn thanh tịnh mà khiến cho cửa sinh vào Lục đạo đóng lại, trong lúc thể ngộ được chân ý của Tứ trí khế hợp, thông qua con đường Chân Không Kim Cương Tát Đỏa mà chứng đắc Chính Giác”. (139-63~69)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ bảy: Đến đây là ngày thứ bảy, sẽ có chư tôn của Trì Minh bộ từ Thánh Lạc Thổ đến tiếp cận. Đồng thời, súc sinh đạo cảm ứng với vô minh ngu si cũng đến dụ dỗ. Pháp quán lúc này là kêu gọi tên người chết và bảo với người ấy rằng: ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Hãy nhất tâm lắng nghe. Đến ngày thứ bảy này, sẽ có ánh sáng tạp sắc do các loại tập khí tịnh hóa mà thành đến chiếu rọi. Cùng lúc đó, lại có chư tôn của Trì Minh bộ cũng từ Thánh Lạc Thổ thiêng liêng đến nhiếp thụ: Có chủ tôn Liên Hoa vũ Trì Minh vô thượng, cũng tức là chủ tôn Trì Minh vô thượng nghiệp quả thành thục, thân phóng ra ánh sáng ngũ sắc, tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và một đầu lâu người chứa đầy máu, tay phải giơ cao kết thành thủ ấn hàng phục, có Không Hành Mẫu màu đỏ ôm thân, ở trong Hồng quang diệm từ chính giữa Đại Viên Tướng, suốt đường nhảy múa mà đến, chiếu rọi vào ông/bà. Lại có thánh tôn tên là Địa Cư Trì Minh, toàn thân màu trắng, mặt tươi sáng hơi cười, tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và đầu lâu người chứa đầy máu, tay phải giơ cao kết thành thủ ấn hàng phục, có Thiên mẫu Đạt Cát Ni màu trắng ôm thân, từ phía đông của Đại Viên Tướng, suốt đường nhảy múa mà đến, phóng quang chiếu rọi (vào ông/bà). Lại có thánh tôn Trì Minh tên là Chưởng Thọ Uy Quyền, toàn thân màu vàng, mặt tươi sáng hơi cười, tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và đầu lâu người chứa toàn máu, tay phải giơ cao kết thành thủ ấn hàng phục, có Thiên mẫu Không Hành màu vàng ôm thân, từ phía nam của Đại Viên Tướng, suốt đường nhảy múa mà đến, phóng quang chiếu rọi (vào ông/bà). Lại có thánh tôn tên là Đại Thủ Ấn Trì Minh, toàn thân màu đỏ, mặt tươi sáng hơi cười, tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và đầu lâu người chứa đầy máu, tay phải giơ cao kết thành thủ ấn hàng phục, có Thiên mẫu Không Hành màu đỏ ôm thân, từ phía tây của Đại Viên Tướng, suốt đường nhảy múa mà đến, phóng quang chiếu rọi (vào ông/bà). Lại có thánh tôn tên là Tự Ngã Thành Tựu Trì Minh, toàn thân màu lục, mặt tươi sáng nửa cười nửa giận, tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và đầu lâu người chứa đầy máu, tay phải giơ cao kết thành thủ ấn hàng phục, có Thiên mẫu Không Hành màu lục ôm thân, từ phía bắc của Đại Viên Tướng, suốt đường nhảy múa mà đến, phóng quang chiếu rọi (vào ông/bà)…Ông/bà XXX tôn quý ơi! Có Câu sinh trí quang do tập khí tịnh hóa mà thành (là ánh sáng do Đệ tứ hỷ dâm lạc hóa thành), từ trong tâm năm vị chủ tôn Trì Minh phóng ra, chiếu đến trong tâm của ông/bà, ánh sáng đó năm màu, nhấp nháy rung động, tựa như tơ màu óng ánh, trong suốt và chói lọi, khiến cho người ta sợ, lại vô cùng mạnh, khiến cho mắt ông/bà khó mà chịu nổi… Cùng lúc đó, ông/bà không những không nên sợ hãi trí quang ngũ sắc chói lọi này mà phải hiểu rõ đó chính là ánh sáng trí tuệ của mình. Trong trí quang ngũ sắc này (là ánh sáng do Đệ tứ hỷ dâm lạc hóa thành) sẽ có âm thanh Thực tướng vốn dĩ như thế tựa như ngàn tia sấm sét đồng thanh nổi lên như muốn bạt sơn đảo hải tiến đến, khiến cho cả vũ trụ chấn động không ngừng. Trong âm thanh khủng khiếp đó, lại có những tiếng “Giết! Giết!” đáng sợ và tiếng Mật chú khiến người ta sợ hãi xen tạp vào giữa. Không nên kinh hoàng, không nên sợ hãi, không cần chạy trốn. Phải biết rằng những thứ đó chỉ là công năng trí tính của Quang Minh nội tại của ông/bà mà thôi…Ông/bà nên chí thành tin theo ánh sáng ngũ sắc sáng sủa chói mắt đó, nhất tâm nhất ý chuyển hướng đến các Thánh tôn kia, những người chinh phục Trì Minh. Ông/bà hãy khấn niệm trong lòng thế này: ‘Các vị Thánh tôn Trì Minh này, các vị anh hùng dũng kiện này, các vị Thiên mẫu Không Hành này, đặc biệt từ Lạc Thổ thiêng liêng đến tiếp dẫn con. Con phải khẩn cầu họ: Cho đến hôm nay, đã có chư Phật ngũ phương ba đời đến phóng chiếu ánh sáng từ bi, dẫn độ con mà con vẫn chưa thể được cứu độ. Con ngu đần như thế này, thật đáng thương biết bao! Chỉ nguyện các vị Trì Minh đừng để con đọa lạc xuống dưới nữa, xin hãy nhiếp thụ con bằng móc từ bi, đưa con đến Lạc Thổ thiêng liêng’. Sau khi khấn niệm như trên, lại thực hiện lời cầu nguyện như sau:

Chư Tôn Trì Minh thương xót lắng nghe độ con thoát lìa,

Với đại bi, xin hãy đưa con lên chính đạo Bồ Đề,

Khi con rơi vào luân hồi vì nghiệp thức hư vọng,

Hãy đưa con lên con đường Câu sinh trí sáng láng chói lọi,

Chỉ nguyện chư tôn Trì Minh dũng kiện dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu Thiên mẫu Không Hành bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ,

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở Phật thổ Cực Lạc thanh tịnh.

Sau khi thắm thiết, chí thành tín niệm cầu khấn như thế xong, nhất định có thể từ trong Hồng quang dung nhập vào trong tâm chư tôn Trì Minh để vãng sinh đến thế giới Cực Lạc thanh tịnh. Tất cả mọi tầng lớp không đàm cũng có thể đắc chứng và đạt được giải thoát ở giai đoạn này. Cho dù là người có ác tập sâu nặng đến mấy cũng có thể được giải thoát vào lúc này”. (139-69~73)

 

Như vậy là tất cả các vị Phật thanh tịnh cứu cánh nói trong các kinh Hiển giáo đều bị biến thành “Phật” song thân bất tịnh ôm người nữ hưởng lạc tương ứng với dâm dục trong cuốn “Tây Tạng độ vong kinh này”. Tư tưởng trung tâm của tất cả các pháp môn tu hành của Mật tông đều quy kết vào việc chứng đắc Đệ tứ hỷ dâm lạc, cho nên “Phật” Pháp thân và “Phật” Báo thân của họ đều là tướng luôn luôn ôm người nữ giao hợp hưởng lạc, vì thế mà tất cả mọi Phật thanh tịnh trong Hiển giáo, sau khi đến Mật tông đều bị biến thành “Phật” song thân dâm uế, có thể thấy pháp của Mật tông dâm uế đến mức cực độ. Tất cả mọi phàm phu, thiên nhân từ Sơ thiền ở Sắc giới trở lên đều đã lìa xa khỏi tướng nam nữ, thì sao Pháp thân Phật của Mật tông lại vẫn chưa thể lìa khỏi cảm giác tiếp xúc dâm dục nam nữ? Vì sao Báo thân Phật và Hóa thân Phật của Mật tông vẫn chưa thể lìa khỏi cảm giác tiếp xúc dâm dục nam nữ?

Lại nữa, Pháp thân Phật chính là Thức thứ tám ở Phật địa cứu cánh (còn gọi là Thức thứ mười – Chân Như Vô Cấu Thức), chỉ là Tâm Thức thứ tám, không phải là pháp hữu sắc, thì sao Mật tông lại nói đó là Phật thân sắc pháp có hình có sắc? lại còn chưa hề lìa khỏi sự hưởng lạc nam nữ ôm nhau giao hợp ở Dục giới? Đỉnh điểm của vọng tưởng cũng không thể hơn chỗ này. Lại nữa, Pháp thân Tự tính của chư Phật tuy là thân có hình tượng, nhưng đó là thân duy chỉ Phật mới có thể chứng biết, vì đã viên mãn tất thảy chủng tử, phương tiện nói đó là Pháp thân Tự tính, chứ không phải là Pháp thân chân thực.

Lại nữa, tất thảy chư Phật theo như Mật tông nói là do “Phổ Hiền Vương Như Lai và Phổ Hiền Vương Phật Mẫu – Phật Phụ thanh tịnh và Phật Mẫu thanh tịnh” tổ tiên vĩ đại sinh ra, thì hành giả Mật tông sau này nếu muốn thành Phật, không cần gì phải tu pháp Thiên thức này, mà nhờ “Phổ Hiền Vương Như Lai và Phổ Hiền Vương Phật Mẫu – Phật Phụ thanh tịnh và Phật Mẫu thanh tịnh” tổ tiên vĩ đại của tất cả các vị Phật giao cấu sinh ra, đâu cần hành giả Mật tông ra sức tinh tấn tu hành mới chứng đắc, bởi chư Phật đều do cùng một tổ tiên vĩ đại sinh ra mà. Các chư Phật kia đều đã như thế, thì hành giả Mật tông cũng phải như thế chứ. Cho nên, các thày Mật tông nói tu hành pháp Thiên thức Trung Hữu hoặc lúc lâm chung đều thành vô nghĩa cả.

Lại nữa, Thực tướng không phải là âm thanh, cho nên cuốn “Tây Tạng độ vong kinh” của Mật tông không nên nói rằng có âm thanh của Thực tướng, mà lại là âm thanh sát phạt đáng sợ gây kinh động nhân tâm, vì hoàn toàn trái ngược với đạo lý về Thực tướng. Lại nữa, Câu sinh trí quang (ánh sáng do Đệ tứ hỷ dâm lạc hóa thành) và Ngũ sắc trí quang (ánh sáng do Đệ tứ hỷ dâm lạc hóa thành) đều hoàn toàn không liên quan gì đến việc thành Phật, cũng hoàn toàn không liên quan gì đến đoạn Ngã kiến và Ngã chấp trong tu chứng của đạo Giải Thoát, không liên quan gì đến việc chứng đắc Nhất thiết chủng trí của Thức thứ tám trong tu chứng của đạo Đại Bồ Đề. Cho nên, cho dù hành giả Mật tông được “trí quang” như thế chiếu đến ở giai đoạn Trung âm thân thì cũng không thể nào giúp cho hành giả Mật tông chứng được một chút xíu Kiến địa và cảnh giới nào của Phật pháp Tam thừa.

Lại nữa, xét thấy chư Phật nói trong cuốn “Tây Tạng độ vong kinh” này đều là hình tượng song thân dâm lạc nam nữ ôm nhau, thì chúng ta biết ngay chư Phật mà Mật tông thờ phụng đều chỉ là sự biến hiện của đám quỷ Dạ Xoa, La Sát, không phải là Phật thật. Lại nữa, chư tôn Trì Minh bộ thị hiện ở ngày thứ bảy của tuần đầu tiên, đều là tướng “tay cầm bảo đao Yển Nguyệt và đầu lâu người chứa đầy máu”, qua đó có thể thấy các “bậc Thánh” loại này đều là do La Sát, Dạ Xoa, quỷ thần biến hiện ra, vì đều giống với sự hóa hiện của các chúng sinh có chủng tính ưa thích dâm lạc và ăn máu tươi. Làm gì có chư Phật Bồ Tát và bậc Thánh nào lại ưa thích dâm lạc và ăn máu chứ? Đã thế lại còn cầm bảo đao và xương máu của chúng sinh, vào lúc chiếu phóng Câu sinh trí quang (ánh sáng do Đệ tứ hỷ dâm lạc hóa thành) lại “có những tiếng “Giết! Giết!” đáng sợ và tiếng Mật chú khiến người ta sợ hãi xen tạp vào giữa”. Những lời như thế, thực chất đã nói rõ cho hành giả Mật tông rằng: “Bậc Thánh” như “Phật, Bồ Tát, chư tôn của Trì Minh bộ” mà Mật tông thờ phụng kỳ thực đều là những thứ do chúng sinh ưa thích dâm lạc và ăn máu như Dạ Xoa, La Sát, quỷ thần hóa hiện ra. Các hành giả Mật tông đáng thương nghe mà không biết, còn tự tin theo phụng hành, tu tập, muốn cầu vãng sinh đến “tịnh độ” là nơi ở của Dạ Xoa, La Sát, đánh bạn với chúng nên mới sinh thành chủng loại đó. Sau khi vãng sinh đến đó thì rốt cuộc liệu có giúp ích gì cho việc tu đạo học Phật? Thế mà họ cứ cắm đầu tin theo phụng hành, không thể nào phân biệt nổi bản chất của chúng?

Lại nữa, những thuyết như “hòa nhập vào trong tâm chư Phật” hay là “hòa nhập vào trong tâm chư Phật Bồ Tát do các Dạ Xoa hóa hiện ra” cũng đều là vọng tưởng, vì tâm của tất cả chúng sinh hữu tình đều không thể hòa nhập vào nhau, vì tâm nào tâm nấy đều là “duy Ngã độc tôn”, làm gì có chuyện hành giả Mật tông đem Tâm mình hòa nhập vào trong Tâm của các hữu tình khác mà thủ chứng được cảnh giới của người khác? Những lời lẽ hư vọng như thế, mà các hành giả Mật tông lại tin sâu không chút nghi ngờ, không thể gọi họ là những người có trí tuệ được. Pháp Thiên thức và pháp Thiên thức Trung âm muốn cầu hòa nhập vào trong Tâm của “chư Phật” để trở thành Cứu cánh Phật như thế sao có thể tin được? Thế nhưng các tín đồ Mật tông lại tin theo không nghi hoặc, lại còn tinh tấn tu hành, ném toàn bộ tiền tài và thời gian quý báu vào trong pháp môn hoang đường do hư vọng tưởng tạo ra của Mật tông, hơn nữa lại còn ra sức phỉ báng vô căn cứ đối với những hành động phá tà hiển chính muốn giải cứu họ thoát khỏi tà kiến đó của tôi, thậm chí còn lên mạng vu cho tôi là kẻ ngoại đạo, thật đúng là những kẻ ngu lấy ơn báo oán, thị phi bất phân.

Qua đó có thể thấy Mật tông đều coi cái Lạc trong Song thân pháp là Đại Lạc ở Phật địa cứu cánh. Tất cả các hành giả Mật tông sau khi đọc nghĩa lý biện chính trong cuốn sách này, là có thể biết được sự hư vọng của pháp Thiên thức của Mật tông, là có thể biết cuốn “Tây Tạng độ vong kinh” do Liên Hoa Sinh viết và pháp cứu độ Trung âm của Mật tông là hư vọng. Nếu đã biết rõ rồi thì nên tránh xa các loại hư vọng tưởng của Mật tông, quay lại trở về với chính pháp Hiển giáo, tu hành thật sự, chớ có mơ tưởng đến chuyện “tức thân thành Phật”. Nên biết rằng, cái Lạc ở Phật địa cứu cánh là lìa xa tất cả mọi hư vọng tưởng, lìa xa mọi Thọ, lìa xa mọi Tưởng âm (lìa xa Tưởng âm: hiểu rõ cái Hiểu về chư pháp tức là Tưởng âm. Biết nó như thế mà không chấp trước thì gọi là lìa xa), sinh ra trí tuệ giải thoát, sinh ra Nhất thiết Chủng trí, chứ không phải là đọa lạc vào lạc thụ của Đệ tứ hỷ dâm lạc tham trước thô nặng nhất trong Dục giới.

Nên biết rằng Đệ tứ hỷ là dựa vào dâm lạc mà có, mà dâm lạc thì lại dựa vào nhị căn nam nữ mới có, mà nhị căn nam nữ phải dựa vào Ngũ sắc căn mới có, Ngũ sắc căn thì phải dựa vào quá trình tạo sắc pháp của “Đại chủng tính Tự tính” của Như Lai Tạng mới được sinh ra, đồng thời lại còn phải dựa vào chủng Vô minh do huân tập tham trước Dục giới ở đời trước được lưu giữ trong Như Lai Tạng mới được sinh ra. Quan sát được như thế, thì sẽ thấy rõ cảnh giới Đệ tứ hỷ của giác thụ dâm lạc chỉ là pháp “tái y tha khởi tính” trong “y tha khởi tính”, chỉ là pháp hư vọng bất thực nhất nhất, thì sao Tông Khách Ba có thể nói nó là Câu sinh hỷ của Báo thân Phật được? Thì sao Tông Khách Ba có thể nói đó là cái Lạc cứu cánh ở Phật địa được? Kỳ thực, đó chỉ là sự tham trước có tầng thứ thấp nhất ở Dục giới mà thôi. Người trong nhân gian còn nói rằng (dâm dục) nên vừa độ mà dừng, thì làm gì có người nào đã thành Phật, Bồ Tát đã chứng chư địa rồi mà còn tham trước Đệ tứ hỷ có tầng thứ thấp nhất trong Dục giới? Cho nên, chúng ta biết rằng “Phật song thân ôm người nữ giao hợp” đến tiếp dẫn người chết mà Mật tông nói đó đều là những kẻ như quỷ thần, Dạ Xoa, La Sát, làm sao có thể dẫn người chết theo họ vãng sinh trở thành giống loài như họ được?

Phật song thân đó của Mật tông lại còn ưa thích những vật cúng dường bất tịnh như ngũ nhục, ngũ Cam lộ và ăn máu, đâu phải là những vật mà Phật Bồ Tát thân tâm thanh tịnh lại ưa thích được? Nên biết rằng, chúng đều là do La Sát, Dạ Xoa, quỷ thần hóa hiện ra. Nếu hành giả Mật tông có trí tuệ, thì nên nhanh chóng tránh xa chúng, chớ có tiếp tục tin nhầm mà thân cận chúng, để tránh muốn cầu vãng sinh đến Tịnh Độ của chư Phật lại vãng sinh nhầm đến thế giới toàn Dạ Xoa, La Sát cư trú. Nếu người nào không tin những lời tôi nói, mà cứ tiếp tục tin theo và tinh tấn tu học pháp Thiên thức, sau này đi vãng sinh, bỗng chợt thấy thân mình đã biến thành hình La Sát, Dạ Xoa, lại ngày đêm mắt thấy cảnh tượng La Sát, Dạ Xoa ăn máu thịt chúng sinh và xương cốt dính máu, ngày ngày phiền não đau khổ, muốn hối hận thì cũng đã quá muộn rồi. Này các hành giả Mật tông ơi, hãy cẩn thận! hãy cảnh giác!

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31524


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg