The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 4: Truyền dạy về giải thoát của Trung Hữu

 Tiết 4: Truyền dạy về giải thoát của Trung Hữu

Việc truyền dạy về giải thoát của Trung Hữu (Trung âm thân) lúc lâm chung của các đại phái Mật tông cũng đại đồng tiểu dị (giống nhiều khác ít), đều do vọng tưởng sinh ra. Ví dụ, Long Khâm Ba được tôn là vị Phật thứ hai của Hồng giáo trong cuốn “Đại viên mãn tam tự giải thoát luận” nói rằng:

“Nói về Trung Hữu lúc lâm chung: Lúc sắp chết, vì Địa hòa vào Thủy nên cảm thấy thân thể nặng và mất sức, cùng lúc đó, Sắc hòa vào Thanh nên mắt nhìn không rõ. Sau đó, Thủy hòa vào Hỏa nên nhiếp giữ, và làm khô phần ướt như máu, nước vàng trong cơ thể. Khi đó, Thanh dung hòa vào Hương nên tai không nghe rõ. Sau đó, Hỏa nhập vào Phong nên hơi ấm nhập tâm, lúc đó, Hương nhiếp nhập vào Vị nên mũi không còn ngửi được mùi. Sau đó, Phong nhập vào Thức nên đoạn khí ngừng thở, lúc đó, Vị nhập vào Xúc nên lưỡi không còn biết vị. Thức nhập vào Không nên sở chấp thô tế bị đoạn diệt, lúc đó Xúc nhập vào Pháp nên diệt Thọ, Tưởng. Hồng bạch Minh điểm của anh ta ?? (chữ A, Hãn tiếng Phạn) giao nhau ở giữa tâm, khi Không dung nhập vào Quang Minh, Lạc Minh vô niệm trí liền sinh khởi trong bốn sát na, vì Pháp tính dung nhập Bản sơ địa, nên tự tính luân hồi giải thoát khỏi Niết Bàn gần. Lúc đó, như mỹ nữ soi gương, ức nhớ lại sự truyền dạy lúc còn sống và Quang Minh của Trung Hữu hiển hiện rõ rệt.

Chỗ giải thoát Trung Hữu Luân Niết: Lại nữa, sau khi sinh khởi Pháp thân cơ trí sát na Trung Hữu Niết Bàn và năm ngày tĩnh lự Báo thân Quang Minh thanh tịnh hiện ra và sự hiển hiện đại nhậm vận ở chỗ giải thoát mà bắn vào Hóa thân tự xứ lục đạo, gọi là Bản sơ địa Bồ Đề tính.

Lại nữa, ở sát na đầu tiên của Quang Minh, gọi là trí tuệ “Minh (hiểu rõ Lục trần mà không hôn muội)”, Lạc Minh vô niệm siêu thắng hơn trước, sinh khởi ở sát na thứ nhất. Hiện cảnh của Bản minh như sự trong sáng lúc trăng lên, hiển hiện như dương diệm và khói mịt mùng.

Dùng trí tuệ của nó ngăn chặn 32 tính vọng do Sân sinh ra, vì sao vậy? “Nhiếp hành luận” của Thánh Thiên nói: ‘Sinh là Thế tục đế, chết là Thắng nghĩa đế. Trong bốn loại trí tuệ Quang Minh lúc đó, dùng sát na đầu tiên ngăn chặn 33 tính vọng biến kế do Sân sinh ra. 33 tính vọng là những gì? Đó là: ‘33 tính vọng Ly tham, trung ly tham, cực ly tham, ý hành, ý khứ, ưu não, trung ưu não, cực ưu não, tịch tĩnh, tầm tư, bố úy, trung bố úy, cực bố úy, tham cầu, trung tham cầu, cực tham cầu, cận thủ, bất thiện, cơ, khát, thụ, trung thụ, cực thụ, cái tác minh, minh cơ, diệu quan sát, tri tàm, bi mẫn, trung bi mẫn, cực bi mẫn, cụ lự, tích súc, đố kỵ’”. Khi đó Sân dung nhập vào Đại viên kính trí.

Lại nữa, cái gọi là trí tuệ “tăng”, khi thăng khởi thanh tịnh hơn trước, hiện cảnh của Bản minh sáng đỏ như mặt trời mọc, như huỳnh hỏa (ánh sáng đom đóm) hiển hiện trú ở giữa sát na thứ hai, dùng trí tuệ đó khiến cho 40 tính vọng do Tham sinh ra dung nhập vào trong cảnh giới Diệu quan sát trí. Như Luận trước có nói: “dùng sát na thứ hai ngăn ngừa phân biệt do Tham sinh ra, tên của 40 tính vọng này là gì: ‘Đó là 40 tính vọng do Tham sinh ra gồm tham, trung tham, biến tham, hỷ, trung hỷ, cực hỷ, duyệt, cực du duyệt, hy hữu, tiếu, mãn túc, lâu ủng, vẫn, duyện táp, cố, cần, mạn, tác, bạn tùy, lực, đoạt, hợp hoan, cực hợp hoan, kiều mỵ, kiều tướng, oán hận, thiện, minh cú, chân thực, phi chân thực, quyết định, cận thủ, thí giả, kích tha, quyền uy, vô sỉ, khi cuồng, khổ giả, bất thuần, bất thành’”.

Lại nữa, “tăng” dung nhập “đắc”, sinh ra trí “đắc” còn thắng diệu hơn cả Lạc Minh vô niệm trước đó. Hiện cảnh của Bản minh như màu vàng lục lúc chiều tối, như ánh lửa đèn trong gió, sinh khởi ở sát na thứ ba.

Lấy trí này có thể che ngăn 7 loại tính vọng do Si sinh ra, như Luận trước đã nói: “dùng sát na thứ ba, che ngăn 7 loại tính vọng do Si sinh ra. Là gồm những thứ nào? Đó là ‘trung tham, vong thất, mê loạn, bất ngữ, yêm hiềm, giải đãi, nghi hối. Tất cả 7 loại tính vọng do Si sinh ra đều được ngăn chặn’”. Khi đó, vì Si dung nhập vào pháp giới trí, đó là cực vô phân biệt trí.

Lại nữa, “đắc” dung nhập “cận đắc”, sinh ra trí tuệ thù thắng hơn trí tuệ trước, đó là trí tuệ “cận đắc”, sinh khởi ở sát na thứ tư. Hiện cảnh của Bản minh như ánh sáng mặt trời trên bầu trời xanh cực tịnh mùa thu chiếu khắp mà dâng cao. Trí tuệ này có thể đồng thời tiêu diệt sự phân chia của chấp trước phân biệt và tập khí trong pháp giới, Tự tính đại nhậm vận của Pháp thân thăng trong tự lý mật ý của tất thảy chư Phật.

Lúc đó, tính trừng vô nhị trí thuần thục nhiều lần trước đó mẫu tử gặp nhau mà giải thoát. Nếu chưa giải thoát, Bản minh của anh ta trụ ở giữa Tâm di dời đến mắt, mắt nhìn thấy Minh tướng, Hư không tăng tướng của Ngũ sắc quang, trong pháp giới trí tự vận thanh tịnh màu xanh ở sát na thứ nhất, hiển hiện Phật Tỳ Lô Giá Na chủ quyến vô lượng thánh chúng. Vì nhận ra thể tính của nó trong đó, nên giải thoát khỏi Phật Tỳ Lô Giá Na mà quay về Bản sơ địa.

Trong sát na thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm; trong Đại viên kính trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác tính trí như thế, lúc đó hiển hiện ra 10 vạn cho đến a tăng kỳ số thân Phật như Bất Động Phật, Bảo Sinh Phật, Vô Lượng Quáng Phật, Bất Không Thành Tựu Phật. Diện mục Bản thức thì liền theo đó vô nhị (không khác) với họ mà được giải thoát, gọi là Trung Hữu (giải thoát) của Báo thân.

Như thế, Diện mục Bản thức, thân nó tự thành ánh sáng vạn mối, biến khắp sáu thế giới mười phương, biến hiển vô lượng Hóa thân của Thích Ca Năng Vương, có thể hiển hiện lợi ích các sự việc trong từng sát na, là Trung Hữu của Hóa thân viên mãn (giải thoát).

Lại nữa, Hóa thân hòa nhập vào Báo thân, Báo thân hòa nhập vào Pháp thân, Pháp thân trụ ở trong Bí mật khí đại cụ túc viên mãn diệu bảo không thiên chuyển, là hiện chứng Bồ Đề ở Bản sơ địa. Tất cả những thứ đó là giải thích cuối cùng về giải thoát Trung Hữu trung căn”. (60-153~157)

Tất cả các tổ sư và hành giả Mật tông xưa nay lúc sinh tiền đều chưa từng chứng được tự tâm Chân Như – Thức thứ tám Như Lai Tạng, thế mà thông qua giải thích quá trình tử vong như thế là có thể thủ chứng được Pháp thân, Báo thân, Hóa thân lúc chết, liền có thể chứng được trí tuệ viên minh của Tứ trí ở Phật địa, kỳ thực đó đều là những lời nói dối, đều là pháp hư vọng do tự mình tưởng tượng ra.

Ví dụ, câu “Địa hòa nhập vào Thủy, Thủy hòa nhập vào Hỏa, Hỏa hòa nhập vào Phong, Phong hòa nhập vào Thức, Thức hòa nhập vào Không mà sinh ra công đức ‘diệt Thọ, Tưởng’” mà Long Khâm Ba nói trong đoạn này quả đúng là hư vọng. Vì sao vậy? Vì sau khi chết, tứ đại từng pháp phân giải ly tán, chứ không phải là “Địa hòa nhập vào Thủy, Thủy hòa nhập vào Hỏa, Hỏa hòa nhập vào Phong”, bởi tứ đại không tương dung, vì các nguyên tố cực vi của tứ đại mãi mãi duy trì được thể tính của nguyên tố cực vi của nó mà không hề biến dị (thay đổi), cho nên trong “Lăng Già Kinh” nói nguyên tố cực vi của tứ đại “thường bất biến dị”. Qua đó có thể thấy thuyết tứ đại dung hòa vào nhau của Mật tông chỉ là vọng tưởng.

Lại nữa, Phong đại không thể dung hòa vào trong Thức được, Thức cũng không thể dung hòa vào trong Không được. Nếu nói Phong đại có thể hòa nhập vào trong Thức, vậy xin hỏi: “Phong đại phải hòa nhập vào thức nào?”. Nếu nói Phong đại hòa nhập vào trong năm thức đầu, nhưng năm thức đầu này chỉ là pháp dựa vào Ngũ sắc căn do tứ đại tạo thành và Ý căn, Ý thức mới được sinh ra, trong giai đoạn Chính tử, năm thức đầu này đều bị đoạn diệt không còn tồn tại nữa, thì sao có thể nói Phong đại có thể dung nhập vào trong năm thức đầu được? Nếu nói Phong đại hòa nhập vào trong Ý thức, thì Ý thức trong giai đoạn Chính tử cũng bị đoạn diệt, không còn tồn tại thì sao có thể khiến Phong đại hòa nhập vào trong Ý thức được? Tuyệt không thể có lý đó!

Lại nữa, Ý thức cũng phải dựa vào Ngũ sắc căn bất hoại do tứ đại tạo thành, thì nó mới được hiện khởi, thì sao tứ đại mà nó dựa vào lại có thể dung nhập vào trong Ý thức được? Còn nếu Phong đại hòa nhập vào Ý căn Mạt Na thức, hoặc hòa nhập vào trong Thức thứ tám Như Lai Tạng, thì nghĩa là thức thứ bảy, Thức thứ tám này phải là Sắc pháp mới đúng lẽ, nhưng như thế thì lại trái với lời Phật nói, cũng trái ngược với chứng lượng của những người chứng ngộ Đại thừa, bởi Phong đại là Sắc pháp, không phải là Vô sắc pháp. Lại nữa, các thày Mật tông xưa nay đều chưa từng chứng được thức thứ bảy Mạt Na, thì sao có đủ trí tuệ để hòa nhập Tứ đại vào trong thức thứ bảy Mạt Na? Cho nên, việc Phong đại hòa nhập vào trong Thức lúc Chính tử vị mà Mật tông nói đó chỉ là hư vọng tưởng, tuyệt đối không phải là Phật pháp.

Lại nữa, câu nói “Thức hòa nhập vào Không” cũng là hư vọng nốt. Xin hỏi: “Thức hòa nhập vào Không, vậy là Thức nào hòa nhập vào Không? Cái hòa nhập vào Không phải chăng là cái Thức vốn dĩ là pháp hữu sắc hay không?” Nếu nói Thức nhập vào Không, đó là Thức nào hòa nhập vào? Sáu thức đầu đã đoạn diệt và không thể hiện khởi trong giai đoạn Chính tử, thì sao có thể hòa nhập vào trong Không được? Nếu Thức có thể hòa nhập vào trong Không, thì Thức này vốn dĩ là pháp hữu sắc thì mới có thể hòa nhập vào trong Không. Nếu Thức chỉ là Tâm pháp giác tri thì lúc đó đã bị đoạn diệt, không thể hiện khởi thì không thể hòa nhập vào trong Không được. Nếu Thức đó là pháp hữu sắc thì người khác cũng có thể tróc bắt Thức của hành giả Mật tông, cũng có thể chấp trì Thức của hành giả Mật tông, bởi cái Thức mà hành giả Mật tông nói đó là pháp hữu sắc mà. Thế nhưng, hiện thấy Thức không phải là sắc pháp, cho nên không thể nói Thức hòa nhập vào trong Không, như thế là có sai lầm. Nếu nói Thức hòa nhập vào trong Không, đó là Minh điểm thì Minh điểm kỳ thực lại không phải là Thức, thì thuyết nói Thức này hòa nhập vào trong Không cũng thành vô nghĩa.

Lại nữa, “Thức hòa nhập vào trong Không” đã là vọng tưởng thì câu Long Khâm Ba nói “sở chấp thô tế bị đoạn diệt” cũng thành vọng thuyết. Bởi trong giai đoạn Chính tử, Thức đã hòa nhập vào trong Không và bị đoạn diệt rồi, thì sao có thể tiêu diệt sở chấp thô tế? Vì Ngã kiến còn chưa đoạn, thì nhất định sẽ khiến Trung âm thân của anh ta sinh khởi và thụ sinh lại.

Lại nữa, trong giai đoạn Chính tử, sáu thức đầu đều đã diệt mất, chúng không còn tồn tại, thì sao có thể nói lúc đó vì có Xúc hòa nhập vào Pháp mà diệt Thọ, Tưởng? Không đúng chính lý chút nào. Sáu thức đầu đã đoạn diệt mà không hiện khởi, thì không thể còn có Xúc nữa. Đã không còn có Xúc giác thì sao có thể khiến Xúc hòa nhập vào Pháp? Lại nữa, cái gọi là “Xúc hòa nhập vào Pháp”, là cái Xúc nào hòa nhập vào Pháp? Trong giai đoạn Chính tử, sáu thức đầu đã không còn tồn tại, thì lấy đâu ra Pháp nào tồn tại, để khiến Xúc hòa nhập vào Pháp? Qua đó có thể thấy những gì Long Khâm Ba nói đều là hư vọng tưởng.

Lại nữa, vì “Xúc hòa nhập vào Pháp” mà khiến cho Thọ và Tưởng đều đoạn diệt, là diệt Thọ và Tưởng của Thức nào? Nếu nói là diệt Thọ và Tưởng của sáu thức đầu, thì trong giai đoạn Chính tử, Thọ và Tưởng của sáu thức đầu vốn dĩ đã bị đoạn diệt rồi, vì sáu thức đầu đã đoạn nên không thể sinh khởi Thọ và Tưởng của sáu thức đầu được nữa, thì không cần phải có Địa hòa nhập vào Thủy…cho đến Xúc hòa nhập vào Pháp, để rồi sau đó diệt Thọ và Tưởng của sáu thức đầu nữa. Nếu nói là diệt Thọ và Tưởng của thức thứ bảy, thì cũng có sai lầm lớn. Vì Thọ và Tưởng của thức thứ bảy tuyệt đối không phải là thứ mà các thày và hành giả xưa nay của Mật tông có thể chứng được. Vì sao vậy? Vì các thày và hành giả xưa nay của Mật tông đều chưa đoạn được Ngã kiến và Ngã chấp, đều chấp Tâm giác tri “Lạc Minh vô niệm” là pháp Ngã thường trụ bất hoại.

Vì chấp vào Tâm giác tri “Lạc Minh vô niệm” nên Long Khâm Ba nói rằng: “Lạc Minh vô niệm trí sinh khởi ở sát na thứ tư, vì Pháp tính dung nhập vào Bản sơ địa nên Tự tính luân hồi giải thoát khỏi Niết Bàn cận”. Đã coi Tâm giác tri Lạc Minh vô niệm là Pháp thường bất hoại thì hiển nhiên là chưa đoạn Ngã kiến, huống hồ có thể đoạn Ngã chấp? Người chưa đoạn Ngã kiến và Ngã chấp, sao có thể chứng được cảnh giới giải thoát diệt Thọ Tưởng của thức thứ bảy lúc chết được? Vì việc diệt được Thọ Tưởng của thức thứ bảy là cảnh giới giải thoát của A La Hán Câu giải thoát, mà người muốn trở thành A La Hán Câu giải thoát thì nhất định phải đoạn trừ Ngã kiến và Ngã chấp, đồng thời phải chứng được Diệt Thọ Tưởng định.

Nhưng nay quan sát thấy tất thảy các thày xưa nay của Mật tông như Long Khâm Ba đều chưa hề chứng được Tứ thiền Bát định và Diệt Thọ Tưởng định, cũng chưa đoạn được Ý thức Ngã kiến, huống hồ có thể đoạn được Ngã chấp mà trở thành A La Hán Câu giải thoát? Cho nên, việc có thể diệt được Thọ Tưởng trong giai đoạn Chính tử mà Long Khâm Ba nói chỉ là những lời nói hư vọng. Vì sao vậy? Vì tri kiến (cho rằng) Tâm giác tri Lạc Minh vô niệm thường và bất hoại chính là Ngã kiến, đã có Tâm giác tri Lạc Minh vô niệm thì có thể thấy rõ Thọ, Tưởng của Ý thức đều tồn tại, còn chưa thể diệt được Thọ, Tưởng của Ý thức, huống hồ có thể diệt được Thọ, Tưởng của thức thứ bảy Ý căn? Không thể có cái lý ấy được! Pháp môn tu hành của Mật tông hoàn toàn đầy đủ phàm phu kiến như thế, mà nói “Tự tính giải thoát khỏi Niết Bàn cận”, thì chỉ là pháp Niết Bàn hư tưởng mà thôi, vì hoàn toàn không hiểu gì về ý nghĩa của Niết Bàn, hoàn toàn không hiểu gì về nội dung tu chứng của Niết Bàn.

Pháp hư vọng như thế, mà nói “Vì nhận ra thể tính của nó trong đó, nên giải thoát khỏi Phật Tỳ Lô Giá Na mà quay về Bản sơ địa”, kỳ thực hoàn toàn hiểu sai về Bản sơ địa. Vì sao vậy? Vì Bản sơ địa là Tự tâm Tàng thức, nhưng nó không phải là cảnh giới của Phật Tỳ Lô Giá Na. Phật Tỳ Lô Giá Na là Pháp thân Phật ở Phật địa cứu cánh đã đoạn tận hai chướng (Phiền não chướng và Sở tri chướng). Nay xem các pháp của Mật tông, còn không thể biết Tàng thức Tự tâm của mình ở đâu, còn chưa phá được Sở tri chướng, huống hồ là đoạn nó? huống hồ là đoạn sạch nó? Còn chấp Tâm ý thức giác tri Lạc Minh vô niệm là pháp bất hoại, còn chưa đoạn được Ngã kiến mà bậc Sơ quả Thanh Văn phải đoạn, huống hồ có thể đoạn được Ngã chấp và đoạn Chủng tử tùy miên của Phiền não chướng? Hai chướng còn đầy đủ, chưa hề phá đoạn, thì sao có thể nói chứng được cảnh giới Bản sơ địa của Pháp thân Phật Tỳ Lô Giá Na trong giai đoạn Chính tử? Không thể có lý đó được! Cho nên, việc Mật tông cuồng ngôn nói giải thoát khỏi cảnh giới Báo thân Phật, Hóa thân Phật, Pháp thân Phật đều là nói theo vọng tưởng của riêng mình, không phải là lời nói có chứng lượng thực sự, không phải là chính tu hành của Phật pháp thực sự.

Với những ngôn thuyết hư vọng tưởng như thế mà nói “Trong sát na thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm; trong Đại viên kính trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác tính trí như thế, lúc đó hiển hiện ra 10 vạn cho đến a tăng kỳ số thân Phật như Bất Động Phật, Bảo Sinh Phật, Vô Lượng Quáng Phật, Bất Không Thành Tựu Phật. Diện mục Bản thức thì liền theo đó vô nhị (không khác) với họ mà được giải thoát, gọi là Trung Hữu (giải thoát) của Báo thân” lúc chết, thì chỉ là lời nói của kẻ vọng tưởng, không có chỗ nào đáng tin cậy, dù chỉ là chút tơ hào.

Với những ngôn thuyết hư vọng tưởng như thế mà nói “Hóa thân hòa nhập vào Báo thân, Báo thân hòa nhập vào Pháp thân, Pháp thân trụ ở trong Bí mật khí đại cụ túc viên mãn diệu bảo không thiên chuyển, là hiện chứng Bồ Đề ở Bản sơ địa. Tất cả những thứ đó là giải thoát Trung Hữu trung căn” lúc chết, cũng là những lời nói của kẻ vọng tưởng, cũng không có chỗ nào đáng tin cậy, dù chỉ là chút xíu. Pháp Thiên thức từ đầu đến cuối đầy hư vọng tưởng như thế, mà nói “Mật tông hiểu biết nhất về siêu độ cho người chết”, lẽ nào là lời nói của người chân ngôn đạo ư?

Long Khâm Ba lại nói: “Giảng dạy về hạ căn vãng sinh Tịnh Độ đắc giải thoát: Quán trong cơ thể mình, Trung mạch như cái màng, bên trong trống rỗng, trên đẩy Phạm huyệt, trong đó Thần thức chữ ? (chữ A tiếng Phạn) màu trắng không tì vết, tụng ?? (chữ A A tiếng Phạn) vài trăm lần, sau khi quán chữ A từ Phạm huyệt xuất ra thật xa một cách vô phân biệt, bắn đến giữa tâm Pháp thân Vô Lượng Quang Phật ở thế giới Tây phương Cực Lạc. Cần mẫn tu tập bảy ngày, tóc đỉnh đầu sẽ nhảy dựng và mở ra, tức thì được vãng sinh Tây phương không phải nghi ngờ. Khi triệu chứng chết đồng khởi xuất hiện, động một cái là di dời đến chỗ khác, cho nên chớ có động đến nó. Đây là sự truyền thụ cứu cánh (giá trị) vàng ròng của Thiên thức”. (60-159)

Đây cũng là vọng ngôn, vì hành giả Mật tông đều không chứng được đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề, trong khi Bồ Tát Sơ địa ở Hiển giáo dù đã chứng được đạo Giải Thoát và Chủng trí của đạo Đại Bồ Đề vẫn không thể tự mình vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, mà phải đợi Di Lặc Thế Tôn đến tiếp dẫn, huống hồ hành giả Mật tông hoàn toàn chỉ là những phàm phu chưa hề có tu chứng, mà có thể dựa vào pháp Thiên thức tu bằng vọng tưởng để tự vãng sinh đến Cực Lạc? Tuyệt đối không có cái lý đó! Quan sát từ chính lý này, có thể thấy pháp Thiên thức của Mật tông từ đầu đến cuối đều là lời lẽ của kẻ vọng tưởng, không đúng một chỗ nào, mà lại ngoa ngôn nói lúc chết là có thể chứng được Phật quả - chứng đủ ba thân Pháp, Báo, Hóa, thật đúng là những kẻ đại vọng ngữ.

Lại nữa, pháp Thiên thức cứu độ Trung Hữu nói trong “Tây Tạng độ vong kinh” cũng chỉ là hư vọng tưởng, chỉ cần nêu ra một ví dụ về khai thị giai đoạn Trung âm trong sách của thượng sư Mật tông đối với người chết ở gian đoạn từ lúc chết ngày đầu đến “ngày thứ bảy” rồi bình luận thêm thì đại chúng có thể biết được vì sao lại nói nó là hư vọng tưởng:

“Bảy ngày đầu, ngày thứ nhất: ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Trong thời gian ba ngày rưỡi này, ông/bà luôn rơi vào trong trạng thái hôn mê. Đợi khi thần chí của ông/bà tỉnh lại, ông/bà sẽ thảng thốt hỏi rằng: ‘Đã xảy ra chuyện gì vậy?’ Như thế, ông/bà sẽ nhận rõ cảnh tướng Trung âm của mình. Khi đó, cả bánh xe luân hồi tức thì chuyển động. Lúc đó, ông/bà sẽ nhìn thấy các loại hiện tượng, sẽ là các loại quang diệm (ánh sáng) và thánh tôn các bộ. Khi đó, cả bầu trời sẽ hiện ra một màu lam thẫm. Khi đó, sẽ có Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na toàn thân màu trắng, tay cầm tám tòa Pháp luân, ngồi trên tòa sư tử, ôm lấy Phật Mẫu Hư Không từ khu vực trung đại gọi là “chủng tử tát bá” hiện ra rõ ràng trước ông/bà. Đây là Sắc uẩn trạng thái gốc hợp lại mà thành, ánh sáng của nó màu lam. Có Pháp giới trí quang màu lam, trong suốt, xán lạn từ trong tâm Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na thân là phụ mẫu phát xạ đến chỗ ông/bà, ánh sáng đó nồng ấm dị thường, khiến ông/bà dường như khó mà nhìn lại được…Ông/bà nên chăm chú khẩn thiết quán tưởng Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na, đồng thời tụng lời chúc cầu này theo tôi:

Lưu chuyển sinh tử đều vì ngu si vô minh mà có,

Nhân lúc Pháp giới trí quang này chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu Hư Không vô thượng bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở tất thảy Phật địa viên mãn.

Sau khi thành khẩn nhiệt tâm cầu khấn như thế xong, thì ông/bà có thể từ trong Hồng Quang luân tiến vào trong tâm của Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na mà chứng được Phật quả Báo thân, an trú ở Phật thổ Mật Nghiêm trung ương”. (139-53~55)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ hai: ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Hãy nhất tâm lắng nghe, chớ có tán loạn! Trong ngày thứ hai này, sẽ có tịnh sắc của Thủy đại biến thành một loại ánh sáng trắng bắn ra ngoài. Vào lúc ấy, tại Phật thổ Diệu Lạc ở Đông phương màu lam sẫm sẽ có Thế Tôn Kim Cương Tát Đỏa A Súc thân màu lam, tay cầm năm bộ chùy Kim Cương, ngồi trên tòa voi, có Phật Mẫu Mã Ma Cơ ôm lấy thân, dưới sự hộ tống của Địa Tạng Tát, Di Lặc Bồ Tát và quyến thuộc cầm gương, và hai vị nữ Bồ Tát cầm hoa, xuất hiện trước mặt ông/bà. Sáu vị thánh tôn trí tuệ này sẽ xuất hiện trước ông/bà. Thức uẩn thanh tịnh, với một luồng ánh sáng trắng xán lạn, đem ánh trong suốt chói mắt, khiến ông/bà không thể nhìn thẳng được, từ trong tâm Kim Cương Tát Đỏa của phụ mẫu phóng tới chỗ ông/bà. Còn thứ song hành với Đại viên kính trí quang lại là một thứ ánh sáng tối màu như khói đến từ địa ngục cũng theo đó mà phóng đến chỗ ông/bà…Ông/bà cần phải tin theo thứ ánh sáng trắng chói mắt đó, chí tâm quy kính Thế Tôn Kim Cương Tát Đỏa, và cầu nguyện như sau:

Lưu chuyển sinh tử đều vì nghiệp sân giận mà có,

Nhân lúc Viên kính trí quang này chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Thế Tôn Kim Cương Tát Đỏa dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu Thánh Mã Ma Cơ bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở tất thảy Phật địa viên mãn.

Sau khi thành khẩn nhiệt tâm cầu khấn như thế xong, thì ông/bà có thể từ trong Hồng Quang luân tiến vào trong tâm của Thế Tôn Kim Cương Tát Đỏa mà chứng được Phật quả Báo thân, an trú ở Phật thổ Diệu Lạc Đông phương”. (139-55~57)

“Bảy ngày đầu, ngày thứ ba: ‘Ông/bà XXX tôn quý ơi! Hãy nhất tâm lắng nghe. Ngày thứ ba sẽ có ánh sáng vàng bản sắc của Địa đại chiếu đến ông/bà. Cùng lúc đó, từ Phật thổ Chúng Bảo Trang Nghiêm ở Nam phương có Bảo Sinh Như Lai toàn thân màu vàng, tay cầm diệu bảo, ngồi trên mã tòa, ôm Phật Mẫu Phật Nhãn cũng đến phóng quang, chiếu vào ông/bà. Ngoài ra còn có hai vị Bồ Tát Hư Không Tạng và Phổ Hiền, hai nữ Bồ Tát cầm tràng hạt và hương, cùng với Phật Phụ Phật Mẫu kể trên tổng cộng sáu thân Bồ Đề, từ trong một đạo Hồng Quang luân phóng quang đến ông/bà. Ánh sáng Bình đẳng tính trí màu vàng làm bằng Xúc uẩn xuất hiện với hình thái bản sắc phóng xạ ra, ánh sáng đó rất chói lọi, hình cầu xán lạn kèm theo các loại cầu ánh sáng vệ tinh, cực kỳ sáng láng, dường như chỉ có thể nhìn thấy được không bằng mắt thịt…Ông/bà hãy phấn chấn lên, tin tưởng vào ánh sáng sáng sủa và chói mắt đó. Ông/bà nên nhất tâm quán tưởng Bảo Sinh Như Lai, và thực hiện lời cầu khấn thế này:

Lưu chuyển sinh tử đều vì ác nghiệp Ngã mạn mà có,

Nhân lúc Bình đẳng trí quang này chiếu sáng đường tối,

Chỉ nguyện Đại Giác Bảo Sinh Như Lai dẫn đường phía trước,

Chỉ nguyện Phật Mẫu Phật Nhãn thiêng liêng bảo hộ phía sau,

Chỉ nguyện khiến con được an độ qua đường hiểm Trung âm đáng sợ

Chỉ nguyện khiến con được an trú ở tất thảy Phật cảnh viên mãn.

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg