The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 2: Pháp Thiên thức lâm chung của phái khác

 Tiết 2: Pháp Thiên thức lâm chung của phái khác

Trong Na Lạc lục pháp do Tông Khách Ba cầu “Phật” rồi truyền ra ngoài cũng có pháp Thiên thức, gọi là phao-oát. Khẩu quyết như sau: “…Đến đây tự biết sắp chết, người có thể phao-oát (người có thể Thiên thức), lúc này phải tu ngay phao-oát để thành tựu. Trước hết ngồi kiết già, miệng niệm từ nào đó, ý nghĩa từ đó nghĩa là “Phật ơi, xin mau đến đây! Con đi đến đó đây! Con đi đến đó đây! Bây giờ là đến lúc rồi!” Niệm xong, tự mình vận khí từ dưới lên trên, hét lên một tiếng, mệnh từ trong “hòa hợp” xuất ra, theo đường Tâm – Hầu – Đỉnh mà ra. Nếu như Phật đến, thì trên đỉnh đầu có Phật quang, mệnh này tức khắc nhập vào trong Phật quang, Phật liền tiếp dẫn đưa đi (62-100)…Tổ sư Tông Khách Ba ra đời, đầu tiên thỉnh cầu đạo thành Phật ở Tây Tạng, thời gian trôi qua lâu mà không được gì, bèn đến đất khác thỉnh cầu. Sau này đến đất Long, gặp một vị Lạt Ma trong một sơn động nọ, là học trò của Lạt Ma Mạt Nhi Han (Mã Nhĩ Ba), ông ta đều biết hết mọi pháp thuật của Lạt Ma Mạt Nhi Han. Tông Khách Ba bèn bái ông ấy làm thày, cầu pháp của ông ấy. Lời ca rằng: “Tôi từ nơi xa xôi đến đây khó khăn muôn phần, nay quy y làm môn hạ của thầy, thầy mới truyền cho tôi Mật pháp thậm thâm, ban cho tôi thuật tu Hỷ Kim Cương và bí quyết đổi xác đấy”. Pháp đổi xác tức là người tu pháp cao tuổi, biết mình không còn sống lâu ở nhân gian, bèn thỉnh cầu một đứa trẻ mới chết, sau khi xin được xác về, đội đầu của đứa trẻ lên đầu của mình, sao cho hai lỗ Phạm huyệt đối nhau, sau đó hành pháp để linh hồn của mình chui vào trong xác đứa trẻ, thế là đứa trẻ sống lại còn người tu pháp già kia chết đi. Đứa trẻ này đã có được linh hồn của người tu pháp già kia nên tự nhiên hiểu rõ các pháp tu đạo, vì thế mà tiếp tục tu pháp. Sau khi đổi xác như vậy, lại có thể trụ thế nhiều năm. Loại pháp thuật này hiện đã thất truyền, kẻ biết chỉ có vài người. Xưa khi Mật Lặc trụ thế, pháp đổi xác này rất thịnh hành. Lạt Ma Mạt Nhi Han biết được bí pháp này, bèn truyền cho Mật Lặc. Mật Lặc đã thành Phật nhờ pháp này (62-111~112)… Hôm qua giảng đến Đạo chi chia làm hai, một là phao-oát; hai là nhập thành. Thứ nhất là phao-oát, tức là pháp mà Mệnh của mình (Chú thích gốc: còn gọi là Thức) từ lỗ Phạm chui ra, di dời đến chỗ khác. Đó là đạo tối thắng lớn nhất của Mật tông vô thượng, là pháp mà Mật tông khác không có… Đây là pháp tu lúc chết, đạo tu Minh điểm lên xuống như thế nào ngày thường, hành giả đều phải hiểu biết cặn kẽ. Phao-oát là pháp tu cuối cùng. Trước khi tu, bắt buộc phải tu cho tốt về tất cả các pháp như đề khí lên xuống…, sau đó thì mới được tu pháp này, nếu không sẽ nguy hại đến tính mệnh…Thực sự là nếu anh ta chưa từng tu qua pháp này, không thể thực tu pháp này, nếu không sẽ nguy hiểm chết người. Vì hồn anh ta sau khi ra ngoài, chắc chắn không thể quay trở lại, chẳng phải là chết hay sao! Ta sở dĩ không cho phép, không phải là tiếc pháp. Cũng vì nguyên nhân này, sự lợi hại của nó, các ngươi buộc phải hiểu cho thấu đáo, vô cùng quan trọng. Như Mậu Nhiên tu tập phao-oát, chưa đến lúc hết thọ mà chết, tất cả các tội lỗi của ông ta, ví như… (62-315). Vốn dĩ người tu pháp có thể tiêu trừ được tội nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp đều không quan trọng, cái quan trọng là ý nghiệp, cho nên tâm nhất định phải thanh tịnh. Sức mạnh của “phao-oát” rất mạnh, bất cứ tội nào cũng có thể tiêu trừ. Người có thể tu phao-oát, hồn anh ta muốn đi đến chỗ nào là có thể đến được chỗ đó, nhưng bắt buộc phải lúc thọ chung thì mới có thể tu pháp này. Nếu chưa đến lúc tận mạng mà tu hành phao-oát, thì tội anh ta rất lớn, ngang với tội giết Phật. Vì chưa đến lúc mà phao-oát, chẳng khác gì giết chết Bản tôn mà anh ta tu tập hàng ngày, tội nghiệp vô cùng lớn, là phạm vào điều thứ tám trong giới Căn bản của Mật tông, tức là làm chảy máu thân Phật đó. Người phá hủy giới Căn bản của Mật tông, sau khi chết tất đọa địa ngục Vô Gián. Cho nên, người tu phao-oát nhất định phải biết lúc nào mới có thể phao-oát, khi nào không được tu phao-oát. Nếu như hàm hồ niệm (luyện?) pháp này, thì tội anh ta cực lớn. Khi phao-oát, nếu trong lòng đã có tâm ý muốn hồn mình xuất ra, thì có thể quay lại, người mà thường giữ ý niệm lợi sinh trong lòng thì mới có thể tu pháp phao-oát”. (62-319~320)

Như vậy, Na Lạc lục pháp mà Tông Khách Ba thừa tập từ Mã Nhĩ Ba để truyền lại cũng chỉ là pháp vọng tưởng mà thôi. Vì sao vậy? Vì “Mệnh” ở đây là “hành pháp không tương ứng với tâm”. Phải do ba pháp Thọ (thọ mạng), Noãn (hơi ấm) và A Lại Da thức hòa hợp mà có Thọ, Tưởng, Hành và bảy thức đầu cùng hoạt động ở nhân gian thì mới gọi là Mệnh, cho nên Mệnh không có thực pháp, mà hiện tượng sinh mệnh hữu tình do Thọ, Noãn và Thức thứ tám hòa hợp hiển hiện ra gọi là Mệnh. Cho nên, cái pháp Mệnh này vốn không có thực pháp để khiến hành giả Mật tông hay tất cả mọi người có thể di dời nó. Cho nên, câu khai thị “mệnh từ trong “hòa hợp” xuất ra, theo đường Tâm – Hầu – Đỉnh mà ra” trong đoạn văn trên nói như thế thuần là hư vọng tưởng của các thượng sư Mật tông.

Lại nữa, cái pháp nói đem Phạm huyệt của mình đối đỉnh với Phạm huyệt của đứa trẻ mới chết để chuyển dời Thức thật đúng là vọng tưởng. Vì sao vậy? Vì đứa trẻ kia vì Ngũ căn của sắc thân bại hoại nên mới chết, nay hành giả già tu pháp Thiên thức lâu năm của Mật tông đem “Thức” của mình di dời sang thân đứa trẻ mới chết, cũng có khác gì cái chết của đứa trẻ kia đâu, vậy thì chuyển thức có tác dụng gì? Tông Khách Ba vô trí, lại còn truyền thụ pháp hư vọng tưởng này, sao không nực cười cho được?

Nếu như đứa trẻ mới chết kia thọ mạng vừa tận, không phải do bị tai nạn tổn hại ngũ căn mà chết, thì cũng có sai lầm lớn. Tức là nói sắc thân đứa trẻ vì thọ tận mà chết, chứng tỏ sắc thân sau khi Như Lai Tạng của nó thụ sinh tạo ra chỉ có thể duy trì được thọ mệnh của nó đến lúc chết. Như vậy, cho dù hành giả tu pháp Thiên thức có thể chuyển nhập thức của anh ta sang sắc thân của đứa trẻ kia thì cũng không thể cho anh ta sử dụng được. Việc này cũng sẽ vô dụng đối với hành giả Mật tông, vì “Đại chủng tính Tự tính” của sắc thân đứa trẻ chỉ cho phép sắc thân và thọ mệnh của nó vận hành đến khi nó chết, bởi đó chính là công năng đức dụng của “Đại chủng tính Tự tính” tàng chứa trong A Lại Da thức.

Cái “Thức” mà Mật tông chuyển dời chỉ là Minh điểm, nhưng xét theo Thánh giáo lượng và chứng lượng của người đã chứng ngộ mà nói thì Minh điểm không phải là Trì thân thức mà Phật giảng, cũng không phải là Trì thân thức mà người chân ngộ chứng được, vậy thì cái thuyết hành giả Mật tông tìm xác đứa trẻ mới chết để chuyển dời “Bản thức” của mình sang thân đứa bé mới chết kia chỉ là hư vọng tưởng, vì “pháp” được chuyển dời kia không có thực nghĩa.

Lại nữa, sắc thân của mỗi chúng sinh hữu tình đều do nhân quả đời trước tương ứng với cha mẹ hữu duyên đời này, cho nên mới thụ sinh ra thân đó của họ. Sau khi hữu tình nhập thai thụ sinh, thì “Đại chủng tính Tự tính” trong Như Lai Tạng của mỗi chúng sinh sẽ hấp thụ nguyên tố tứ đại trong huyết mẹ để tạo ra sắc thân của mình. Sắc thân đó chỉ có Như Lai Tạng của chính anh ta mới có thể nắm giữ, không phải là Như Lai Tạng của người khác cũng có thể nắm giữ, vì “Đại chủng tính Tự tính” của mỗi người đều khác nhau. Chỉ cần quan sát việc đào thải sau khi ghép nội tạng ngày nay là có thể hiểu được lý này.

Giả sử như có thể chuyển dời được Bản thức, thì hành giả Mật tông sau khi Thiên thức thành công, cũng phải uống thuốc chống đào thải đúng giờ do bác sĩ Tây y đưa cho, thì sau đó mới có thể sinh tồn được. Thế nhưng, hiện thấy các tổ sư Mật tông từ xưa đến nay đều không có ai có thể biết được Bản thể Như Lai Tạng của mình ở đâu, huống hồ có thể biết “Đại chủng tính Tự tính” mà người ngộ được Như Lai Tạng phải tiến tu? Huống hồ có thể biết được tính bài xích (tính đào thải) của Như Lai Tạng đối với cơ thể lạ? Cũng chưa từng thấy có tổ sư Mật tông nào từ xưa đến nay phát minh ra thuốc chống đào thải, hoặc truyền thụ câu chú ngữ có thể tiêu trừ được tính đào thải này (giả sử như có câu chú có thể tiêu trừ được tính bài xích này). Cho nên mới thấy rằng thuyết pháp Thiên thức thực tế chỉ là trò cười mà thôi.

Lại nữa, hình ảnh Bản tôn chỉ là tướng phần do tự mình quán tưởng mà thành, không phải là thực pháp. Cho nên, người tu tập pháp Thiên thức, giả sử quả thực có thể xả mệnh sớm, cũng không thể có cái gọi là “giết hại thân mệnh Bản tôn” để nói. Vì Bản tôn chỉ là hình ảnh do chính mình quán tưởng mà có, không có mệnh căn thực sự. Cho nên, nếu người nào vì tu tập pháp Thiên thức mà xả mệnh sớm, thì cũng chẳng có cái tội nào gọi là giết hại Pháp thân cả. Vì sao vậy? Vì Pháp thân chính là Thức thứ tám, mà Thức thứ tám của tất cả chúng sinh hữu tình đều là Thể tính Kim Cương, xưa nay không có bất kỳ ai có thể hủy hoại được. Cho dù là tập hợp sức mạnh của tất cả Phật mười phương cũng không thể nào hủy hoại được Pháp thân Thức thứ tám của một hữu tình thấp kém, thì sao các thày Mật tông lại có thể nói người tu tập pháp Thiên thức mà xả thọ sớm là giết chết mệnh căn của Bản tôn? là hại chết Pháp thân? là đồng với tội giết hại Phật được? Vọng tưởng đến như vậy, vô tri đến như vậy, sao có thể tin theo và tu học pháp ấy?

Ảnh Bản tôn đã không có mệnh căn, cũng không phải là Pháp thân Thức thứ tám, mà cũng không có thần thánh đại lực nào có thể hủy hoại Thức thứ tám được, thì sao có thể nói người tu tập pháp Thiên thức xả thọ sớm là ngang với tội giết hại Phật được? Thật không có cái lý ấy!

Trong pháp Thiên thức ở “Na Lạc lục pháp” còn có khẩu quyết vọng tưởng nói thế này: “Tu tập pháp phao-oát (Thiên thức), buộc phải tu lúc cơ thể khỏe mạnh. Đây là ý để luyện tập, chứ không phải là đi thật. Lúc bệnh tật không được tu tập phao-oát, tu là chết đấy. Người thường xuyên tu tập, khi Mệnh thượng thăng đến đỉnh (đầu), thì hô chữ Ca, thế là Mệnh liền giáng hạ xuống giữa Tâm, hơi dừng lại. Lại hô chữ Ca thêm tiếng nữa, thì lại giáng hạ xuống Đan Điền và trú ở đó. Muốn Mệnh xuất ra ngoài, thì hô chữ Át, âm nó như hắt hơi vậy. Hô Át một tiếng là Mệnh lên đến giữa Tâm, lại hô Át tiếng nữa là lên đến Đỉnh đầu, hô Át lần thứ ba là bay ra ngoài rồi. Cho nên, lúc bình thường tu tập, nhiều nhất không được hô Át quá hai lần. Nếu như hô Át lần thứ ba, Mệnh sau khi ra ngoài, lâu rồi mà không quay lại là sẽ chết, người ở bên cạnh nhìn thấy có thể nhanh chóng kề tai anh ta hô chữ Ca thật nhiều lần, thì tự có thể dần dần tỉnh trở lại (Chú thích gốc: nghĩa của chữ Ca là Áp – đè ép, ý là đè áp Mệnh xuống dưới)”. (62-322)

Đó quả thực là vọng tưởng, Tông Khách Ba truyền “Na Lạc lục pháp” này thực sự là hành động vô nghĩa. Đó là pháp Thiên thức mà tổ sư Mật tông xưa nay vẫn truyền thụ, chỉ là di dời Minh điểm do họ quán tưởng mà thành chứ không phải là chuyển dời Bản thức Như Lai Tạng của anh ta, vì các thày Mật tông xưa nay vẫn đều ngộ nhận Minh điểm là Như Lai Tạng mà. Trong pháp Thiên thức mà Mật tông nói, cái Thức đem chuyển dời đó được hiểu là Căn bản thức trì mệnh trì thân. Mà Căn bản thức trì thân trì mệnh lại là Thức thứ tám Như Lai Tạng –A Lại Da thức. Nay thấy tất cả các thượng sư từ cổ chí kim của tứ đại phái Mật tông đến giờ vẫn không có một người nào đích thân chứng được Thức thứ tám A Lại Da, vậy thì họ muốn chuyển dời cái Thức nào sang cơ thể người mới chết đây? muốn chuyển dời Thức nào đến “Không Hành tịnh độ” đây? Minh điểm thì không phải là Căn bản thức, chỉ là pháp dựa vào sự quán tưởng của Ý thức mà sau này mới được sinh ra, chứ không phải là pháp vốn dĩ hằng thời thường trụ, cũng không phải là Căn bản thức, thì pháp Thiên thức mà các thày Mật tông xưa nay tu tập chỉ là vô nghĩa, những gì tu được chỉ là hư vọng, không thể chuyển dời Căn bản thức của mình đi đến bất cứ nơi đâu. Tu pháp Thiên thức như thế, truyền thụ pháp Thiên thức như vậy, quả thực là một trò hý luận lớn nhất trên thế gian.

Lại nữa, Mệnh không phải là Minh điểm, phần trước đã hiểu rõ rồi. Cho nên, trong đoạn văn trên các thượng sư Mật tông khai thị rằng: Hô “Át” là có thể làm thượng thăng Minh điểm Mệnh căn, quả thực là một thứ hư vọng tưởng. Như vậy, nói rằng hô “Ca” mà có thể làm giáng hạ Minh điểm Mệnh căn cũng là lời hư vọng, vì Minh điểm tuyệt đối không phải là Mệnh căn.

Lại nữa, tất cả các hành giả Mật tông tu tập pháp Thiên thức đều có thể dựa vào tiếng hô Át để đẩy Minh điểm do mình quán tưởng chạy lên trên, thậm chí đẩy Minh điểm quán tưởng xông qua Phạm huyệt để bắn ra ngoài, (chúng ta) có thể hiện kiến thấy Mệnh căn vẫn ở trong cơ thể mà không thể xả mệnh, cho dù người ấy vì bệnh tật đau khổ chốn thế gian và muốn dựa vào tiếng hô Át trong pháp Thiên thức để xả mệnh cũng không thể xả nổi. Cho nên, câu “sau ba tiếng Át là có thể xả mệnh” trong pháp Thiên thức thực tế chỉ là một trò hề.

Lại nữa, việc muốn xả mệnh sớm, duy chỉ có người tu được chứng cảnh của Thiền thứ tư (đệ tứ thiền) thì mới có thể xả mệnh sớm. Nếu người nào không có chứng lượng định cảnh tầng Thiền thứ tư, mà lại muốn xả mệnh sớm bằng ba tiếng hô Át, thì chỉ là vọng tưởng mà thôi. Đâu chỉ là ba tiếng hô Át? Giả như có người vì đang phải chịu nỗi đau đớn tột cùng, chỉ muốn cầu xả mệnh giải thoát mà tu tập pháp Thiên thức, ngày ngày hô trăm tiếng Át, ngàn tiếng Át để chết sớm thì cũng không thể toại nguyện, huống hồ là chỉ hô ba tiếng Át là có thể xả mệnh? Những lời lẽ vọng tưởng hô Ca, hô Át trong pháp Thiên thức như thế, tại sao người có trí lại có thể tin theo? lại muốn tu tập theo những lời nói đó? Chỉ có người ngu si vô trí mới tin tưởng và làm theo nó mà thôi.

Cái vọng tưởng dựa vào pháp quán tưởng, dùng pháp Thiên thức để thu nhiếp hồn người chết tái nhập vào Trung mạch của xác chết ấy để vãng sinh thế giới Cực Lạc phương Tây còn có khẩu quyết thế này: “Trước khi tu học phao-oát, buộc phải tu khí công cho tốt, khiến tất cả mọi khí có thể hòa nhập vào Trung mạch, sau đó khí này mới có thể đẩy ép Mệnh ra ngoài. Ngoài việc tự thực hiện phao-oát, còn có pháp phao-oát thay cho người chết. Pháp này làm sau khi có người chết, mời một vị Lạt Ma có công phu cao thâm đến ngồi bên người chết (Chú thích gốc: Chỗ ngồi không được cách người chết quá xa, chỉ trong phạm vi tai có thể nghe thấy). Nếu người chết không phải là đệ tử ông ta thì phải làm lễ quán đỉnh cho người chết trước, thì mới có cảm ứng. Nếu người chết lúc sinh tiền đã là đệ tử ông ấy rồi thì cảm ứng càng nhanh, vì hai bên quen biết nhau. Sau đó, thì thu nhiếp hồn người chết lại, thả lại vào trong Trung mạch người chết, sau đó phụng thỉnh Phật A Di Đà giáng lâm, đứng trên đỉnh đầu người chết, thế rồi vị Lạt Ma này hô ba tiếng Át trong pháp phao-oát, hồn của chính ông ấy xuất ra ngoài, đồng thời hồn người chết cũng từ Trung mạch xuất lên trên, hội hợp với Phật quang của Phật A Di Đà, thế là được Phật tiếp dẫn đến thế giới Cực Lạc phương Tây rồi”. (62-322~323)

Như trên đã nói, cũng như lời Phật dạy trong tất cả các kinh, đều nói cái Mệnh của con người là do A Lại Da thức và Thọ, Noãn trì giữ, không thể khuyết thứ nào. Mà Thọ và Noãn lại do A Lại Da thức triển chuyển sinh ra. Quan sát từ chứng lượng của người chứng đạo thực sự trong Đại thừa thì thấy rằng không hề sai khác so với lời Phật nói, cho nên Mệnh của con người không phải là Minh điểm. Qua đó có thể thấy, thuyết đem Bảo bình khí đẩy ép “Minh điểm Mệnh căn” ra khỏi Phạm huyệt của Mật tông chỉ là hư vọng tưởng. Mệnh vốn không phải là pháp có Thể tính chân thực, thuần chỉ dựa vào sự hòa hợp của ba pháp Thọ, Noãn, A Lại Da thức để định ra cái tên gọi, cho nên cái pháp “Mệnh” đó chỉ là tính không duy danh (tính chất không thực, chỉ có tên), không phải là pháp thực thể. Nếu đã là pháp phi thực thể mà chỉ là ngôn thuyết, thì sao có thể dựa vào Bảo bình khí để đẩy Mệnh từ Hải Để luân của mình lên trên và ép ra ngoài Phạm huyệt? Quả thật là hư vọng tưởng!

Nếu như các thày Mật tông nói rằng: “Mệnh căn mà chúng ta nói không phải là Minh điểm, mà là Mệnh căn thực sự” thì đã bị phá như đã nói ở trên. Nếu họ nói rằng: “Mệnh căn mà chúng ta nói chính là Minh điểm, Minh điểm chính là A Lại Da thức” thì lại trái ngược với lời Phật, cũng trái ngược với chứng lượng của những người chứng ngộ chân chính, và trái ngược với sự thật. Nếu nói rằng Minh điểm chính là cái Thức được chuyển dời thì người tu pháp Thiên thức như thế rõ ràng không phải là Phật pháp, vì Minh điểm tuyệt đối không phải là A Lại Da thức. Nếu nói Minh điểm không phải là Mệnh căn, không phải là A Lại Da thức, thì pháp quán tưởng Thiên thức nói rằng chuyển dời Minh điểm để nhập vào tử cung của Không Hành Mẫu, vãng sinh Tịnh độ hoàn toàn là vô nghĩa, vì lúc lâm chung, quán tu pháp Thiên thức xả báo rồi, Mệnh căn của Trung âm thân anh ta và Căn bản thức A Lại Da của anh ta vẫn còn ở thế giới Ta Bà này mà không sinh đến Tịnh độ. Người tu pháp Thiên thức như thế, rốt cuộc có ý nghĩa thực sự gì mà nói? Đều chỉ là hư vọng tưởng tiến thoái mất chỗ mà thôi.

Lại nữa, cái hồn của người chết chỉ là Trung âm thân mà thôi. Đã xả thọ và hình thành Trung âm thân rồi thì không thể nào quay trở lại cái thân thịt thô nặng nữa. Cho nên việc Mật tông nói quán tưởng đem linh hồn người chết thu lại, nhập vào sắc thân của người đã chết chỉ là vọng tưởng. Lại nữa, pháp quán tưởng chỉ là hình ảnh Nội tướng phần của bản thân, không phải là thực pháp, cho nên việc quán tưởng (tưởng tượng) linh hồn người chết quay lại nhập xác không có nghĩa là linh hồn người chết vì thế mà có thể nhập xác được thật. Kỳ thực, tuyệt đối không cách nào có thể khiến cho linh hồn người chết nhập lại vào xác được, cho nên mới nói quán tưởng như vậy là hư vọng tưởng. Lại nữa, thuyết “hoàn hồn sau khi chết” chỉ là hiện tượng sốc hôn mê, không phải là chết thật, không được lẫn lộn với thuyết “thu nhiếp linh hồn người chết quay về nhập xác”.

Lại nữa, nếu Lạt Ma nào có thể thỉnh được Phật A Di Đà đến, thì việc gì còn phải thu nhiếp hồn người chết vào trong Trung mạch của thi thể, rồi mới xuất ra vãng sinh thế giới Cực Lạc nữa? Phật đã đến rồi, tự sẽ có Bồ Tát đi theo cầm hoa sen (hoặc đài hoa sen, đài Kim Cương…) để tiếp dẫn người chết vãng sinh Cực Lạc, đâu cần phải nhờ đến Lạt Ma làm phép thu nhiếp linh hồn người chết nhập lại Trung mạch, rồi thay anh ta quán tưởng Mệnh căn người chết từ Trung mạch bắn ra để vãng sinh Cực Lạc. Người làm như thế, chẳng khác gì câu yết hậu ngữ thô bỉ của đám người thế tục nói rằng: “Cởi quần đánh rắm – vẽ rắn thêm chân”.

Lại nữa, Mệnh căn của người chết (hoặc Căn bản thức của anh ta) không phải là nhờ Lạt Ma quán tưởng thay là có thể trở thành thật được. Cái hình ảnh mà Lạt Ma quán tưởng được vốn dĩ chỉ là hình ảnh riêng (trong đầu) của Lạt Ma, còn vong hồn Trung âm của người chết vẫn là vong hồn Trung âm của chính anh ta, không thể thay thế cho nhau, cũng không thể nhập lẫn vào nhau. Như thế mà nói quán tưởng hộ cho người chết để Mệnh anh ta quay trở lại Trung mạch xác chết chính mình, kỳ thực là vô nghĩa, vì cái quán tưởng đó không phải là sự thực, bởi hai thứ không thể can thiệp lẫn nhau.

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg