Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 1: Khái thuyết về pháp Thiên thức -2 |
Thế nhưng, đó đều là những hư vọng tưởng, bởi ở đây Mật tông nói: “sau khi dùng chú gia trì cho dâm dịch của hai người nam nữ, thì có thể sinh ra đại công đức, khiến cho người ta có thể sinh đến ‘Tịnh độ’”. Cái hư vọng tưởng này tuyệt đối không phải là Phật pháp. Vì sao vậy? Vì dâm dịch chỉ là pháp tham dục thô nặng nhất, lớn nhất trong Tam giới sinh ra, hoàn toàn trái ngược với đặc tính thanh tịnh của Tịnh Độ của chư Phật, thì sao có thể trợ giúp hành giả Mật tông vãng sinh đến Tịnh Độ Phật? Tuyệt đối không có cái lý ấy! Nếu như những người Mật tông đó lớn tiếng rằng “gia trì” như vậy thì chắc chắn có thể vãng sinh đến “Tịnh độ” thì Tịnh độ đó tuyệt đối không phải là Tịnh Độ của chư Phật, mà chắn chắn là các tịnh độ Mật pháp như “Ô Kim tịnh độ, Không Hành tịnh độ, Lạc Không tịnh độ, La Sát tịnh độ…” do quỷ thần tương ứng với tổ sư Mật tông bày đặt ra, chỉ là cảnh giới của pháp giới quỷ thần, không phải là Tịnh Độ nói trong kinh pháp của Phật giáo. Vì thế, chuyện vãng sinh Tịnh độ nói trong pháp Thiên thức của Mật tông không thể tin theo, vì hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp chân chính. Người muốn vãng sinh đến Tịnh Độ của chư Phật thì điều kiện tu hành của bản thân anh ta phải phù hợp với điều kiện và nguyện riêng mà vị Phật ở Phật thổ vãng sinh đó đặt ra, tuyệt đối không thể vãng sinh như pháp Thiên thức này nói được. Lại nữa, trong pháp Thiên thức của Hương Ba Cát Cử có nói “các hành giả đưa ‘Thức’ xung lên”, rồi chui ra ngoài Phạm huyệt ở đỉnh đầu, bắn vào trong tử cung của Không Hành Mẫu do quán tưởng mà thành, giống với quan điểm của các phái khác, cũng đều là hư vọng tưởng cả. Bởi Căn bản thức ở đây là Thức thứ tám A Lại Da, còn gọi là Như Lai Tạng, Tâm này hiện hành và vận hành biến khắp toàn thân, chứ không có bất kỳ một pháp nào có thể tụ lại ở một điểm rồi thu vào Trung mạch. Đến chư Phật mười phương ba đời cũng đều không thể đem Thức thứ tám tụ lại thành một điểm và thu vào trong Trung mạch. Cho nên, cái Thức mà pháp Thiên thức của Mật tông dắt đi chỉ là cái Minh điểm do Tâm ý thức quán tưởng mà thành, chỉ là (Nội) tướng phần từ trong Như Lai Tạng xuất hiện ra sau khi quán tưởng, hoàn toàn không có thực chất, cũng không phải là Căn bản thức. Cho dù có thể đem Minh điểm đó quán tưởng bắn vào trong tử cung của Không Hành Mẫu, thì cũng không thể nào đem Bản thức di dời đến bất kỳ Tịnh độ nào. Căn bản thức đó vẫn biến khắp trong thân của hành giả Mật tông và cũng không chuyển nhập vào trong tử cung của Không Hành Mẫu do hành giả quán tưởng ra, sau khi chết thấu (chết thật) thì từ Thức thứ tám Căn bản tâm đó lại sinh ra Trung âm thân, rồi mới lại sinh ra Ý thức “Tâm giác tri giai đoạn Trung âm tương ứng với đời này”. Khi đó, anh ta mới biết được rằng những lời tôi viết trong các sách mà anh ta đọc trước khi chết là chân thực bất hư, vì đã tận mắt nhìn thấy sự thực mà tôi đã nói. Lại nữa, chỗ Cung tam giác đó, chỉ là chỗ của tử cung thuộc cơ quan sinh dục. Tử cung tuy có công năng giúp nam nữ ở Dục giới sinh dưỡng con cái, nhưng sắc thân của con cái thực tế lại do Như Lai Tạng của mỗi đứa con tạo ra – do Như Lai Tạng mượn tinh cha trứng mẹ, cùng với tử cung và huyết dịch của người mẹ làm duyên để tạo ra, chứ không phải là do hai cha mẹ cố ý tạo ra sắc thân của con cái. Cha mẹ chỉ cung cấp môi trường và điều kiện, rồi do Tàng thức của con cái nhiếp thụ tứ đại trong cơ thể mẹ để sáng tạo ra. Cho nên, tử cung tam giác tuy là chỗ mà nhân loại Dục giới sinh khởi Ngũ âm của con cái, nhưng không phải là chỗ sinh ra vạn pháp thực sự, mà Như Lai Tạng mới là chỗ có thể sinh ra vạn pháp thực sự. Cho nên, Mật tông nói nó là Cung sinh pháp tam giác chỉ là những lời hư vọng tưởng tượng mà thôi. Trong đoạn văn trên, phái Hương Ba Cát Cử có nói rằng: “Dựa vào tu Bình khí, hành giả sẽ thu hồi các dòng năng lượng chủ yếu hoạt động ở các cửa cảm quan và dẫn đạo vào Trung mạch. Để tu pháp này có hiệu quả, anh buộc phải dẫn khí vào Trung mạch. Hành giả đóng kín tám lối ra (cửa) mà có thể cho “Thức” dời xuất, chỉ cho phép “Thức” xông ra từ cửa thứ chín – Phạm huyệt”, đó thuần là pháp ức tưởng (tưởng tượng). Thức thứ tám vô hình vô sắc, có thể tùy ý lìa thân từ bất cứ chỗ nào (trên cơ thể), không cần phải qua khiếu huyệt (Phạm huyệt) mới ra được. Tôi có lúc nói (Như Lai Tạng) chui ra từ một chỗ nào đó, ý là nói đó là chỗ xả thân sau cùng, chứ không phải là nó có hình sắc chui ra khỏi Sắc thân từ một huyệt nào đó. Nếu đúng như pháp Thiên thức mà Mật tông nói, thì lẽ ra A Lại Da thức phải có hình có sắc, thì mới phải bịt kín các lỗ khiếu khác để khiến “Thức” không thể từ các lỗ khiếu đó chui ra, thì mới tùy theo ý muốn của hành giả Mật tông để thoát ra từ Phạm huyệt trên đỉnh đầu. Vì thế, Mật tông mới nói câu “quán tưởng chữ Phạm đặt ở các lỗ huyệt khác để bịt kín chúng lại”, pháp này thuần là tưởng tượng mà ra, trái ngược với sự thật mà những người chứng ngộ quan sát thấy, cũng trái ngược với Thánh giáo lượng, và khác hẳn với thực chứng của những người đã chứng ngộ. Căn bản thức đã vô hình vô sắc vật chất, vận hành khắp toàn thân, sao có thể vì sự quán tưởng của hành giả Mật tông mà hội tụ thành một cái Minh điểm được? Nếu như Căn bản thức quả thực có thể được hành giả Mật tông quán tưởng mà tụ thành một điểm, thì lẽ ra sau khi quán tưởng thành công, Căn bản thức đã xả thân được 99,99%, duy chỉ còn lại Minh điểm là bị giữ lại. Nếu đúng như thế, thì sắc thân của hành giả Mật tông sau khi quán tưởng thành công mà thường trụ ở Minh thể sẽ lạnh cứng như người chết, vì đã xả thân 99,99% rồi. Đồng thời, sau khi quán tưởng thành công, hành giả Mật tông cũng sẽ cảm thấy toàn thân mình lạnh đi, vì đã rời thân 99,99% rồi. Thế nhưng, nay xét thấy tất cả những người quán tưởng thành công, cơ thể họ đều không lạnh đi, cũng không tự cảm nhận được cảm giác lạnh đi lúc xả báo, cho nên thuyết “Minh điểm là Căn bản thức” của Mật tông chỉ là những lời lẽ hoang đường, là pháp do các tổ sư Mật tông vọng tưởng bày đặt ra, không liên quan đến Phật pháp, vì nó trái ngược với giáo lý Phật pháp. Lại nữa, nếu Căn bản thức là Minh điểm thì giống với ngoại đạo mà bị Phật phá bỏ. Có ngoại đạo nói rằng: “Tất cả chúng sinh đều có thực Ngã, cái Ngã Thể này thường hằng, cực nhỏ, như một cực vi (cực vi trần), tiềm ẩn chuyển động trong cơ thể, thực hiện các sự nghiệp”. Câu nói này có sai lầm lớn. Nếu cái Thể của Căn bản thức có trọng lượng như mức độ nhỏ bé của Minh điểm, thì nó làm thế nào có thể trì giữ được sắc thân to lớn như vậy mà đồng thời vận động rộng khắp? thậm chí đến mức làm thế nào có thể trì giữ được thiên thân ở Sắc giới thân cao lớn như vậy mà vẫn vận động rộng khắp? Điều này không đúng chính lý chút nào! Lại nữa, nếu Căn bản thức là Minh điểm, thì khi chưa quán tưởng, Minh điểm không xuất hiện, thì có nghĩa là không có Căn bản thức trụ trong thân thể, cũng có nghĩa là lúc đó đang chết rồi. Lại nữa, nếu nói Minh điểm tuy nhỏ mà có thể tuần hồi khắp nơi trong thân thể vô cùng thần tốc nên mới có thể khiến cho toàn thân chúng ta đồng thời vận động; vậy khi sắc thân chúng ta không thường do Căn bản thức nhiếp trì thì cũng có nghĩa là không do Căn bản thức tạo sinh ra, như vậy là trái ngược với Thánh ngôn lượng, cũng trái ngược với sự thực mà những người Kiến đạo của Đại thừa nhìn thấy. Cho nên, các tổ sư Mật tông chủ trương “Minh điểm tức là Căn bản thức, là A Lại Da thức” chỉ là vọng tưởng do các thượng sư Mật tông không như lý tác ý sinh ra mà thôi, điều này giống với quan niệm của ngoại đạo phái Cực vi, đều là vọng tưởng, không phải là Phật pháp. Lại nữa, các phái của Mật tông đều phổ biến nói rằng: “Mọi người đều biết pháp Thiên thức tu thật tốt thì sẽ rút ngắn thọ mạng. Do đó, tu Bảo bình khí và lưu xuất Cam lộ…là để kéo dài tuổi thọ”. Kỳ thực, câu này là nói láo. Nếu Minh điểm là Căn bản thức, thì pháp tu đó mới có thể rút ngắn tuổi thọ; Nếu Minh điểm không phải Căn Bản thức thì cho dù hành giả Mật tông có nỗ lực quán tu pháp Thiên thức như thế nào đi nữa thì vẫn hoàn toàn không mảy may ảnh hưởng gì đến tuổi thọ anh ta mới đúng. Vì lẽ đó, sau khi quán tu pháp Thiên thức, lại tu thêm quán tưởng Bảo bình khí và lưu xuất Cam lộ để kéo dài tuổi thọ sẽ trở nên vô nghĩa. Lại nữa, phái Hương Ba Cát Cử của Mật tông nói: “Tâm hành giả là chữ A màu trắng. Chữ A hướng lên trên, đi qua Trung mạch bắn ra, từ Phạm huyệt bay ra. Lại đi trong liên hoa đạo màu đỏ của Kim cương Hợi mẫu để chui vào bên trong thân Hợi mẫu, (lại) chui vào trong tâm Hợi mẫu, và hòa nhập vào trong tâm đó. Quán tưởng tâm này biến thành một Kim cương Hợi mẫu có trí tuệ Không Lạc, thể tính của vị ấy và của thượng sư không hai, không khác”, câu này quả thật mắc sai lầm rất lớn. Nếu điều đó là đúng, thì Minh điểm không phải là Căn Bản thức của hành giả mới phải, vì chữ A màu trắng quán tưởng ra mới là Căn Bản thức, thì việc quán tu của pháp Thiên thức sẽ không cần dựa trên nền tảng quán tưởng Trung mạch Minh điểm nữa. Thứ hai, Tâm hành giả là chữ A màu trắng, chữ A màu trắng này sau khi đi qua âm đạo màu đỏ của Hồng Không Hành Mẫu để chui vào bên trong thân Không Hành Mẫu, lại chui vào trong tâm của Không Hành Mẫu, rồi hòa nhập làm một với tâm của Không Hành Mẫu, khiến cho bản thân mình và Không Hành Mẫu hòa nhập làm một, thì lẽ ra bản thân hành giả từ đó trở đi hoàn toàn biến mất, không còn sự tồn tại của bản thân nữa, như thế thì câu nói “Không Hành Mẫu đem Bản thức của mình đi đến Tịnh độ” sẽ trở nên vô nghĩa, vì hành giả Mật tông lúc này đã bị Không Hành Mẫu thôn tính thành một chúng sinh hữu tình rồi còn đâu. Như thế thì “tâm nguyện cầu sinh Không hành Tịnh độ” của hành giả Mật tông cũng rơi vào hư vô, thì tu học pháp Thiên thức cũng chẳng có ý nghĩa thật sự gì, hành giả Mật tông tu nó có tác dụng gì? Nếu nói sau khi chui vào trong tâm Không Hành Mẫu, hợp nhất với Không Hành Mẫu, bản thân mình vẫn còn tồn tại thì nghĩa là Không Hành Mẫu đã biến mất, đã bị tâm của hành giả xâm nhập thôn tính, thì Không Hành Mẫu không còn tồn tại nữa, phải như thế mới đúng logic. Vào lúc này, tiếp tục quan sát thấy tâm của Không Hành Mẫu đã biến mất, thì làm gì còn ai có thể dắt hành giả Mật tông đi Tịnh độ nữa? Chỉ còn có thể dựa vào sức của chính mình mới có thể cầu sinh Tịnh độ thôi. Thế nhưng, chính vì bản thân không đủ năng lực để đầu sinh Tịnh độ thì mới phải tu pháp Thiên thức, hy vọng Không Hành Mẫu đem mình đi vãng sinh Tịnh độ, nay đem Không Hành Mẫu hợp nhất với mình rồi, thì sao có thể vãng sinh Tịnh độ được nữa? Thế thì tu pháp Thiên thức quả thực là vô nghĩa rồi. Lại nữa, nếu tâm mình có thể hợp nhất với tâm của Không Hành Mẫu, thì Căn Bản thức của chúng sinh hữu tình cũng đều có thể hợp nhất được. Đã có thể hợp nhất được thì tất cũng có thể phân chia được. Tâm mà có thể phân hợp, thì tức là pháp có thể tăng, có thể giảm. Mà như thế thì đạo lý “bất tăng bất giảm, bất sinh bất diệt” trong “Tâm Kinh” sẽ thành vọng thuyết. Vì các lẽ trên, có thể thấy pháp Thiên thức mà Mật tông hoằng truyền hoàn toàn không có căn cứ về mặt giáo huấn, cũng trái ngược với lý lẽ, không phải là Phật pháp thực sự. Pháp Thiên thức lúc lâm chung của Bồ Tát lục địa phái Tát Già nói rằng: “‘lâm chung’ là pháp Thiên thức Pha Ngõa đạo đại thủ ấn…của quán đỉnh thứ tư (61-35)… Nếu tu đúng như thế, chắc chắn có thể đắc thành tựu vô tử. Nhưng nếu khi tu chuộc mạng đã vô ích (không có hiệu quả) thì buộc phải tu pháp Thiên thức lâm chung, trong đó chia làm ba loại: pháp Thiên thức chuyển tướng lâm chung, pháp Thiên thức quang uẩn lâm chung và pháp Thiên thức âm thanh lâm chung. Về pháp Thiên thức chuyển tướng: Lúc bình thường, phải luyện tập trong khi đi đứng nằm ngồi và trước khi ngủ, cho đến khi triệu chứng (điềm) chết chắc hiện tiền (xuất hiện), phải nghênh thỉnh tướng Bản tôn và thượng sư không khác, đến hư không (lơ lửng) trước mặt. Nếu có tài vật đủ thì cúng dường báu vật, nếu không có thì cúng dường ý niệm (quán tưởng ra vật phẩm để cúng dường), tùy sức mà dâng hiến, sám hối tất cả lỗi lầm về Tam muội da đã thụ và chưa thụ giới. Nếu được thượng sư an trú, thì cầu thỉnh ngài ban cho quán đỉnh Bản tôn của Đạo; nếu không có thượng sư thì tu tự nhập, dâng hiến đồ cúng và đóa mã (Thực tử - thức ăn). Thứ đến, khi trì giữ bất kỳ thân nào chuyển biến các loại tướng trước mặt, tu tự tính Bản tôn thân, theo tướng đã hiện trước đó mà ức niệm đến nó, tướng của Bản tôn và Thức của mình, hai thứ này chuyển thành một vị. Tướng của Trung âm thân không xuất hiện, là chứng được thành tựu trì minh… Về pháp Thiên thức quang uẩn: Phần tiền hành thì thực hiện như pháp Thiên thức chuyển tướng. Thân ưỡn thẳng, hai gót chân chạm đến hậu môn, hai tay giơ vòng sau gáy, lưng dựa đệm thoải mái, tự quán Bản tôn, từ chữ chủng tử giữa tâm của Bản tôn phóng quang, nghênh thỉnh tướng của Bản tôn và thượng sư không khác (vô dị) đến trước mặt, ân cần khởi thỉnh ba lần. Thứ đến, quán tu từ trong giữa tâm mình có một đạo quang uẩn to như ngón tay cái, dùng quang uẩn này trị từng huyệt một. Đầu tiên trị tắc (đóng kín) hai cửa đường đại tiểu tiện, rồi đến rốn, rồi đến miệng, tiếp đến hai lỗ mũi, rồi hai con mắt, hai cái tai, rồi đến giữa mi, tiếp đến là Đỉnh môn, bịt kín từng huyệt một. Lại nữa, quán tưởng chỗ trong rốn, có một “phong đàn thành” hình bán nguyệt, màu xanh, to nhỏ tùy ý, trên đó có một vầng trăng, trên đó là ? (chữ Hồng tiếng Phạn) màu xanh thẫm chỗ dựa của tâm to nhỏ vừa trong đó. Lại nữa, hít hơi vào trong cho đến khi không thể tăng thêm được nữa, nâng (nín cơ) hậu môn lên trên, lưỡi chạm ngạc trên, dùng sức mãnh liệt lần lượt đẩy ngược vầng trăng và ? (chữ Hồng tiếng Phạn) lên trên thật lâu, khi làm được đến hơi thứ 20 như trên thì đã đến giữa hầu, khi đến hơi thứ 21 thì khai mở Phạn tịnh môn, bay vụt lên trên như lấy hơi thổi lông chim vậy, cũng tựa như chim bồ câu bay vụt qua khỏi cửa sổ. Ở cửa này, có hai y tướng Năng, Sở (Năng y và Sở y) tạp tam tòa, hướng đến giữa tâm Bản tôn trước mặt, như cung bắn tên, như đại bác nổ pháo, bắn phọt ra đến giữa tâm Bản tôn, đạt thành tựu không có Trung hữu (Trung âm thân), nâng cất tông thú hoặc trì minh, không có luân hồi nữa. Về pháp Thiên thức âm thanh: Tu tiền hành, hoàn tịnh sám hối thì làm như phần trên, lấy Minh điểm bịt kín các cửa…Pháp lâm chung của Quán đỉnh thứ tư cũng là lấy chữ để bịt, ở chỗ Tề luân tu khí và mặt trăng, ? (chữ Hồng tiếng Phạn)…Hít 20 lần hơi bằng hai âm ?? (chữ Hỉ Cát tiếng Phạn) để dẫn đến giữa hầu, đến hơi thứ 21 thì phụt ra từ Phạm huyệt như phần trên, bắn mạnh ra, đắc thành tựu nâng cất tông thú hoặc trì minh. Hai cái này tựa như sư tử trắng thần tốc, xé phá sở y của minh, tự khai mở Phạn tịnh môn bằng âm thanh, chấp trì năng y của minh, đó là yếu quyết thực tu”. (61-216~219) Pháp Thiên thức Pha Ngõa đại thủ ấn của phái Tát Già như sau: “Ban đầu, ngồi kiết già thẳng thân, dùng chữ để ngăn bịt lại tất cả cửa bên ngoài, tất cả các cửa bên trong cũng dùng chữ để bịt lại như tu tập trước đây. Khi Cần tức, ý hành ở Trung mạch giữa chữ ? (chữ A tiếng Phạn) ở ngoại tướng đến chữ ? (chữ Hãn tiếng Phạn) ở Đỉnh kế (búi tóc đỉnh đầu). Khi Mệnh tức, hành bên trong Trung mạch từ chữ ? (Hãn) đến chữ ? (A) ngoại tướng. Như thế, lúc chết cũng tự nhiên hành trụ ở trong Trung mạch, cứ thực hành đi thực hành lại nhiều lần trong tâm Du Già sĩ, khí Mệnh, Cần nhập hết vào Trung mạch. Hòa nhập vào tối thắng đạo là chứng ngộ Thực tướng cực tịnh Không Lạc đại thủ ấn, nhờ giác thụ đã nói ở phần trên mà đắc thành tựu nâng cất tông thú hoặc trì minh”. (61-312) Tiếp theo xin nói về pháp Thiên thức mà Thượng sư Trần Kiện Dân giảng: “Thành tựu của Pha Ngõa phải có mấy điều kiện. Anh phải đủ năng lực tập trung tất cả thọ mệnh, tinh hoa, linh hồn của mình trên Minh điểm trì mệnh. Trung mạch của anh trước hết phải mở đã, đồng thời anh phải tập trung tất cả ngũ khí trên Minh điểm này. Kết quả là, ngũ đại này, ba hồn bảy phách này đều ở trong cái này rồi. Cho nên khi cái này tập hợp với nhau, theo kinh nghiệm của tôi, có cảm giác mình sắp chết rồi. Vì ngoài cái đó ra, tôi không còn thứ gì giữ ở bên ngoài nữa. Kết quả là, hễ nó xông ra ngoài thì nhất định sẽ chết. Cho nên, nói tu Pha Ngõa sẽ đoản mạng, là nói người tu tốt thực sự, anh ta sẽ thấy có hiện tượng này, có cái cảm ứng này. Nếu tôi mà không tu được nhanh chóng cần mẫn như thế, thì không thể có kinh nghiệm này. Những người tu Pha Ngõa khác, xưa nay nói chuyện đều chưa từng nói đến điều này, là nói khi Minh điểm sắp đến, phải có được cảm giác chết này. Căn bản là họ chưa đạt đến cảm giác đó, cho nên hoàn toàn chỉ giảng pháp tu này, căn bản không hề nhắc đến việc chết. Tôi thấy quá sơ suất rồi. Nhưng mà, tu nhiều quá rồi, thì cũng sẽ đến lúc có cảm giác chết, anh thực sự xông ra ngoài rồi, thì lúc đó sẽ chết. Cho nên, lúc đó tôi vẫn thường được Phật Bồ Tát đặc biệt gia trì, tuy rằng trước kia sư phụ chưa từng nói, nhưng tôi hiểu được rằng cái Minh điểm này tập trung ở trong đó, cái sinh mệnh này đều hội tụ ở trong đó, tôi liền cảm thấy sắp chết rồi, tôi bèn nhanh chóng điều khiển Minh điểm đang tập trung ở một điểm này tản ra, không những tán ra đến Ngũ luân mà còn phân tán ra đến tận mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân. Nó sẽ phát tán ra khắp toàn thân, cho nên tinh hoa toàn thân từ chỗ hành khí khắp nơi sẽ quay trở lại chỗ ban đầu toàn thân, như thế thì sẽ không chết nữa…Còn về Trung mạch đã mở rồi, thì sẽ có mười tướng. Mười tướng này là nhật, nguyệt, điện quang, hồng nghê (cầu vồng), quang điểm, khói, dương diệm, huỳnh quang (ánh sáng đom đóm), trời xanh không mây. Mười tướng này có rồi, nghĩa là Trung mạch thực sự đã mở rồi. Sau khi Trung mạch mở, thì sẽ có Trí tuệ mạch này, sau đó thì sẽ có còn đường thiên thức này. Trung mạch của anh không mở thì không có con đường này đâu. Họ vẫn thường nói rằng, chỗ này phải mở đỉnh, sẽ phát thũng, xuất huyết, có cỏ cát tường. Những thứ đó đều là biểu hiện bề ngoài, là ngoại tướng. Cho nên, tôi nói phải chú trọng đến bốn tướng bên trong. Bốn tướng bên trong chính là: Một, Minh điểm phải tập trung, biến thành Minh điểm trí tuệ; Hai, Trung mạch phải mở, có đủ sẵn con đường vãng sinh; Ba, A Di Đà Phật trên đỉnh đầu phải xem được rõ; Bốn, khí phải biến thành Khí trí tuệ. Phải có nội tứ tướng này, sau đó lại thêm ngoại tam tướng, chỗ trên đỉnh đầu phải có tóc tự nhiên rụng xuống, hoặc phát thũng, hoặc xuất huyết, cắm cỏ hay không cũng không vội nữa. Nó nhất định sẽ có cái lỗ ở đó. Máu nó có thể chảy ra, đương nhiên cỏ cũng có thể cắm vào được. Cho nên phải hiểu được những điều này, phải hiểu rằng Lục pháp là cái cơ bản, có thể nói là một cái thứ tự viên mãn nằm ngang. Những cái khác đều phải thẳng, cái thẳng trước hết là phải thành tựu khí công, sau đó lại phát quang…Tất cả những thứ này thành tựu, rồi Trung mạch mở ra, Pha Ngõa cũng sẽ có”. (32-243~245) Thế nhưng, người tu pháp Thiên thức vĩnh viễn không thể nào vì tu pháp này mà xả mệnh (chết) được, bởi Thức trì thân không phải là Minh điểm, Minh điểm không phải là Thức thứ tám Như Lai Tạng, chỉ là một loạt các loại ảo giác xuất hiện trong quá trình họ tu pháp mà thôi. Vì sao vậy? Có nhiều hành giả đã quán tưởng Minh điểm phiêu du tứ xứ ngoài thân thể, còn cảm thấy khoan khoái, chứ không hề thấy có tình huống cảm giác sắp chết như ông ta thuật ở trên. Qua đó có thể thấy, Minh điểm của các thày Mật tông chính là thuyết về Thức trì thân, thực tế chỉ là hư vọng tưởng mà thôi. Các khai thị của Phật trong kinh điển Tam thừa cũng đều không hề nói Minh điểm là Thức trì thân. Thức trì thân mà Phật nói là Như Lai Tạng, nó có các loại thể tính, được tất cả những người chân ngộ xưa nay đích thân chứng được, chuyển lên tiến tu Chủng trí. Vì thế, tuyệt đối không hề coi Minh điểm là Thức trì thân. Việc các thày Mật tông kim cổ coi Minh điểm là Thức trì thân A Lại Da thực sự là một câu chuyện hài hàng đầu trong Phật giáo. Thế nhưng, các hành giả Mật tông lại không biết sự hoang đường này, vẫn dụng tâm ở Minh điểm, muốn chứng ngộ Thực tướng bằng quán tu Minh điểm, hoàn toàn lãng phí thời gian quý báu và tiền tài, đâm đầu vào trong Mật tông, tu học các loại pháp môn ngoại đạo không trợ ích cho Phật đạo, thật là bi ai! Người tu pháp Thiên thức phải có đủ bốn điều kiện lớn mới có thể có thể nói là tu học thành công. Thứ nhất, bắt buộc phải thông đạt Trung mạch, dưới từ Hải để luân, trên đến Đỉnh luân, Ngũ luân đều phải thông suốt. Như thế, khi Minh điểm và Bảo bình khí luyện thành thì mới có đất dụng võ. Thứ hai, Minh điểm bắt buộc phải vô cùng tập trung rõ ràng, nếu Minh điểm tán mà không tụ, thì quang tướng không tốt không mạnh, thì chứng tỏ pháp tu quán tưởng còn chưa viên mãn, phải tiếp tục tu nữa. Thứ ba, bắt buộc phải có cái mà Mật tông gọi là Khí trí tuệ, ý là khi quán tưởng Minh điểm, có thể khiến cho Minh điểm quán tưởng tương ứng với Không tính (ý niệm về vật chất vô sắc pháp), lại hỗ trợ bằng Bảo bình khí thì mới thành tựu Khí trí tuệ của Mật tông. Như thế, khi xả báo, mới có thể tương ứng với “Không tính” mà xông nhập vào trong tử cung của Không Hành Mẫu, “được Không Hành Mẫu đem Minh điểm trí tuệ của hành giả đưa đến Tịnh độ”. Thứ tư, Độ Mẫu Không Hành Mẫu (Lục Độ Mẫu, Hồng Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu…) quán tưởng trên đỉnh bắt buộc hiển hiện rõ, liên hoa (âm đạo trong âm hộ) của Độ Mẫu cũng phải cực kỳ minh hiển, và lỗ liên hoa của Độ Mẫu phải mở rộng, bao chụp lên nửa đỉnh đầu của hành giả. Người có đầy đủ bốn pháp như trên mới có thể gọi là người đã quán tu pháp Thiên thức thành công. Thế nhưng, Không Hành Mẫu được quán tưởng và Thức được dời chuyển trong pháp Thiên thức chỉ là Nội tướng phần bên trong tâm do hành giả Mật tông quán tưởng mà thành, thực tế không phải là có Không Hành Mẫu thật, hơn nữa lại mắc phải sai lầm lớn do các loại hư vọng tưởng đã nói ở trên. Cho nên, pháp Thiên thức mà họ tu tuyệt đối không phải là Phật pháp, mà là pháp hư vọng do các tổ sư thời xưa của Mật tông vọng tưởng và lưu truyền đến ngày nay, có tu cũng vô dụng. Những người có trí tuệ nghe bậc Thiện tri thức giải thích xong là có thể tránh xa nó ngay. Theo lời của Mật tông, người muốn thiên thức thành công lúc mệnh chung, thì bắt buộc phải mở đỉnh đầu thành công trước lúc chết. Pháp tự tu mở đỉnh như sau: “Người tu pháp này, phải dựa vào sự dạy bảo của thày, tuân thủ theo nghi quỹ mà tu, không được tự ý tăng giảm, quán tưởng như pháp cho thành thục, ba, năm ngày cho đến một tuần, hai tuần là có thể mở đỉnh. Trước khi đỉnh mở, trên đỉnh đầu sẽ phát thũng, hoặc ngứa, hoặc tê liệt, hoặc chảy nước vàng, hoặc có thể trồng cỏ. Khi phát hiện trên đỉnh có triệu chứng dị thường, thậm chí là chảy máu, hoặc trào vọt máu, đều là điềm mở đỉnh. Nhưng không cần phải kinh hoảng, cần niệm nhiều Vô Lượng Thọ Phật đà la ni, qua vài ngày sẽ bình phục. Sau khi mở đỉnh, đừng có tự phụ, phải phát tâm quảng đại, quảng hành Lục độ, rồi lại tu pháp khác để làm duyên tăng thượng, đồng thời phải bảo mật không tiết lộ cho người khác. Nếu gặp được người có Mật khí lợi căn, phải khuyến thỉnh cầu thày truyền pháp, tùy duyên độ hóa. Nếu gặp phải người chấp trước, thì dùng pháp môn niệm Phật quán tưởng hô hấp để trợ giúp anh ta pháp Tịnh độ, Hiển Mật viên dung. Luôn lấy việc không làm mất lòng tin của người khác làm trọng”. (122-463~464) Pháp nghi quỹ và quán tưởng, phần trên đã lược thuật, nay không nhắc lại nữa. Qua việc nêu ra sơ bộ về hành môn và lý luận quán tu của pháp Thiên thức Mật tông trên đây, người học có thể hiểu được về pháp Thiên thức “cực kỳ thắng diệu, vượt xa hơn cả pháp môn niệm Phật Tịnh độ của Hiển giáo” của Mật tông rồi, về bản chất chẳng qua chỉ là hư vọng tưởng của các tổ sư Mật tông mà thôi, đều dựa vào ý riêng của mình để bày đặt vọng tưởng rồi nói nó thắng diệu, khoa ngôn nói rằng có thể dựa vào pháp Thiên thức này, được Không Hành Mẫu dẫn độ đến Thường tịch quan thổ trong bốn loại Tịnh Độ. Nghiên cứu chân tướng của nó, thì thấy chỉ có thể vãng sinh đến “Tịnh độ dâm lạc và ăn máu” nơi mà Dạ Xoa và La Sát cư trú. Cho đến khi mệnh chung, các loại Độ Mẫu như “Phật hoặc Bồ Tát” đến tiếp dẫn hành giả Mật tông đều là do Dạ Xoa hoặc La Sát biến thành, vì họ đều là các tượng song thân ôm Minh Phi mà hưởng thụ dâm lạc mãi mãi (chi tiết xem trong “Tây Tạng độ vong kinh”), hoặc là các Độ Mẫu màu xanh đỏ khỏa thân vô sỉ…Bọn họ đều là các hữu tình quỷ thần như Dạ Xoa, La Sát tham trước đệ tứ hỷ dâm xúc ở Dục giới, họ thường ngày đều vui hưởng những đồ bất tịnh như ngũ nhục, ngũ cam lộ do các hành giả Mật tông cung phụng, cho nên các Độ Mẫu như “Phật Bồ Tát” đến tiếp dẫn hành giả Mật tông đều là do Dạ Xoa, La Sát hóa hiện ra. Như thế mà cầu vãng sinh Tịnh độ, còn không thể vãng sinh đến Phàm Thánh đồng cư thổ, Phương tiện hữu dư thổ của bất kỳ Tịnh Độ Phật Quốc nào, huống hồ có thể vãng sinh đến Thường tịch quang thổ nơi mà chỉ có Phật mới có thể ở? Tuyệt không thể có lý ấy! Do Mật tông xưa nay đều giữ vẻ thần bí và không ngoại truyền Mật pháp, cho nên khiến cho người học trong Phật môn không biết gì đến bản chất của pháp Thiên thức, tin là thật, ngộ nhận là pháp thâm diệu thực sự thắng diệu hơn cả pháp môn niệm Phật của Hiển giáo. Kỳ thực, nó thuần chỉ là pháp tự vọng tưởng mà thành của các tổ sư đời xưa của Mật tông, lại được thần thánh hóa, mỹ hóa, Phật hóa bằng vỏ bọc ngôn ngữ, người ngoài không biết chi tiết bên trong, nên tin rằng đó là pháp tu thắng diệu hơn cả pháp môn niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ của Hiển giáo, nhưng về bản chất thì không đáng để bậc thức giả nhếch mép cười.
Lượt xem trang: 31521 |
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |