The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 11: Phải tẩn xuất song thân pháp của Mật tông ra ngoài Phật giáo

 Tiết 11: Phải tẩn xuất song thân pháp của Mật tông ra ngoài Phật giáo

Từ việc biện chính về “lý, giáo” ở trên, có thể thấy pháp tức thân thành Phật Song thân pháp của Mật tông tuyệt đối không phải là Phật pháp, tất cả mọi Phật đệ tử bi trí tăng thượng đều phải nên tìm cách tẩn xuất pháp tu song thân nam nữ này ra khỏi Phật môn, và thuyết minh rộng rãi cho người học biết, để tất cả những người tu học biết: Pháp nghĩa của Mật tông kỳ thực căn bản là ngoại đạo pháp tà trái. Tuyên truyền rộng rãi như thế thì mới khiến cho người học cảnh giác, không còn dẫm phải vết xe đổ mất tài thất thân, lại phá giới, phá hoại chính pháp của những người học đi trước nữa.

Tạng Kinh của Mật tông chép lại cuốn kinh Tiểu thừa “Thị thất giao hội kinh” cũng nói rằng: “…Thế Tôn trong kinh Tiểu thừa có tên là “Thị thất giao hội kinh” nói: “Này Phạm Chí! Ở đây có một người nào đó tự xưng: ‘Tôi tu phạm hạnh thanh tịnh, lại chưa từng song song giao hợp với phụ nữ’, nhưng khi anh ta nhìn thấy ngọc thể của phụ nữ, lại quyến luyến trang phục trên thân người phụ nữ, cùng vui đùa với phụ nữ, yêu thích những tiếng cười vui của người phụ nữ, yêu thích làm việc gần phụ nữ, yêu thích những vật trang sức và cả ca múa, âm nhạc của phụ nữ cách tường, nhìn thấy người ta hưởng thụ cái vui ngũ dục thì tâm lĩnh thần hội. Những thứ đó đều không thanh tịnh. Nhìn lại về Phạm thiên ở các tầng trời, cũng không thanh tịnh giống như vậy”. Cuốn “Đại thừa thất pháp kinh” cũng nói: ‘Nếu như tăng cường tham dục bằng vọng tưởng, việc đó còn không nên làm, vậy thì việc giao hợp bằng nhị căn càng không phải nói nữa’”. (6-147)

Các thày Mật tông xưa nay biết rõ Phật rất nhiều lần bài bác sự tham dục, nhưng lại liên tục nói màu mè rằng: “có thể đoạn tham dục trong tham dục”, nói phương pháp lấy dục chặn dục đó mới là Phật pháp cứu cánh, rồi vu rằng Phật đã từng thuyết pháp này. Thế nhưng những người học Phật sơ cơ thường không biết cái sai lầm của họ, cho rằng đúng là Phật từng thuyết pháp như vậy, sau khi chạy theo gót các thượng sư Mật tông, dần dần thâm nhập vào “tu học Phật pháp” trong Mật giáo, không biết những gì mình học, mình tu, mình chứng đều là pháp luân hồi Dục giới của ngoại đạo, khiến cho người ta không thể không cảm thán chua xót cho họ: thời Mạt pháp tu học Phật đạo thật khó, luôn bị mê hoặc bởi tà kiến của các danh sư, cực khó quay đầu.

Vì pháp tu song thân khiến cho những người học Mật phá giới hủy luật, không nên tu học mới phải. Những người tu học Mật pháp, mục tiêu thành tựu cuối cùng chính là đệ tứ hỷ trong dâm lạc và cầu mong trụ mãi trong cái lạc thụ đó mà không thoái thất. Trụ ở trong đại lạc đệ tứ hỷ như thế và nhận định cái Tâm giác tri trong đó là tâm Không tính, cho rằng thế là thành tựu Phật đạo cứu cánh. Thế nhưng pháp này chắc chắn sẽ dẫn đến thành tựu tội tà dâm, là một trong mười đại trọng tội không chấp nhận sám hối.

Tội như thế, ngay cả người tại gia còn không nên phạm, huống hồ là những người xuất gia như Tông Khách Ba, lại còn dạy các thượng sư Mật tông nên hợp tu với đệ tử khác giới? lại thực hiện quán đỉnh thứ ba, đến trước tượng Phật trong đàn quán đỉnh, hợp tu Song thân pháp với Minh Phi, cầu đạt cực khoái tình dục để lậu Minh điểm (xuất tinh dịch) vào trong hạ thể của Minh Phi, đem trộn với dâm dịch của Minh Phi, sau đó đem thứ Cam lộ làm bằng dâm dịch hỗn hợp đó để quán đỉnh cho đệ tử? rồi bắt đệ tử nếm nuốt thứ dâm dịch đó, để dẫn sinh ra dâm lạc? Thật không thể hoang đường hơn!

Đó là giới tà dâm nằm trong mười giới nặng mà tất cả hành giả Mật tông đều không nên phạm phải, nhưng thực tế các hành giả và Lạt Ma của Mật tông, thân là người đã xuất gia mà sao có thể mê mẩn không mệt? Lẽ nào không sợ khổ báo địa ngục trong vô lượng kiếp sau khi đã phạm giới hay sao?

Hành giả Mật tông cho rằng Lạt Ma xuất gia có thể cùng người nữ giao hợp, chỉ cần Minh điểm không lậu rớt (không xuất tinh), thì coi như không phạm giới. Vì tà kiến này, tất cả những người xuất gia, tại gia của Mật tông đều không sợ phạm giới tà dâm: “Kinh đã nói rằng: ‘Muốn sinh chứng Bồ Đề ở đây, thì một giọt Minh điểm cũng không được (làm) hoại’. Thế nhưng ta lại nghe rằng: Người có thể nhiếp trì trí (tuệ) vô nhị, thì dù có hoại cũng không ngại. Mật kinh cũng chép lại các phương tiện thiện xảo, khiến cho người (không may bị) hoại không bị đọa, hơn nữa vẫn có thể siêu thoát khỏi Tam giới. Người xuất gia đó không hoại Minh điểm, sao không cho phép dựa (vào Minh Phi mà tu Song thân pháp chứ)? Mà ta không (làm được) như thế thì cũng bất an đấy… Nay Minh điểm không tiết xuất, giới tất không phạm, trí tuệ triển chuyển tăng thượng, A xà lê nên vui lòng vì điều này, sao còn lừa dối?... Thày truyền thừa còn đem khẩu quyết của Tham đạo ra khai thị, truyền cho kinh luận bí mật, đại ý là: ‘Dùng trí nhiếp trì, có trí sở y (làm chỗ dựa) thì Minh điểm dù có hoại (dù có xuất tinh) thì cũng không phạm “cấm hành giới”. Minh điểm không lậu rớt, duy chỉ là trước khi sinh ra trí tuệ, phải dựa vào đó để tăng trưởng thôi’…Giữa chừng cũng nghi ngờ như thế liệu có phạm giới tỳ kheo, nhưng chỉ uống cốc trà trong chốc lát, tức thì không còn suy nghĩ về nó nữa, thời muốn ca hát, thời muốn chơi đùa người nữ, thời muốn đến nơi xa lạ cũng đều thỏa nguyện tùy ý”. (34-607~609)

Như vậy, Mật kinh do các thượng sư Mật tông tự tạo ra đã chủ trương: Nếu như Lạt Ma xuất gia của Mật tông là người đã có được trí tuệ Không tính kiến, đã có công phu mạch khí, Minh điểm, tuy đích thân hợp tu pháp dâm lạc song thân với người khác giới, chỉ cần Minh điểm (tinh dịch) có thể không xuất tiết, thì vẫn là người không phạm giới cấm của Mật tông. Còn nếu như khi hợp tu Song thân pháp với người khác giới, không cẩn thận để xuất tiết Minh điểm, nhưng nếu là người có thể hành dâm lạc bằng “trí tuệ Lạc Không bất nhị” thì cũng không bị coi là phạm giới.

Lại nữa, Mật tông cho rằng: Coi pháp tu như vậy là đạo thành Phật cứu cánh, cho nên những người thường hợp tu Song thân pháp với người khác giới gọi là người tu hành tinh tấn, không nên vì chuyện có lúc xuất tiết tinh dịch mà nói là phạm giới. Vì duyên cớ đó, rất nhiều nhà tu hành lâu năm của Mật tông bèn cho rằng người có đầy đủ trí tuệ Lạc Không bất nhị, tuy có lúc lậu rớt Minh điểm, cũng không phải là phạm giới. Cho nên, người trong Mật tông cho rằng pháp tu như vậy mới là chính tu hành của Phật pháp, nó khác với sự hành dâm thông thường của người thế tục.

Nếu suy xét lý luận và thực tế của pháp tu song thân, thì người xuất gia trong Mật tông đang tham cầu pháp tại gia: Một là, có nhiều thượng sư chưa tu được công phu nâng hạ Minh điểm, nhưng vì tham mỹ sắc của người khác nên vẫn hợp tu Song thân pháp với người ta. Hai là, tuy có được công phu nâng hạ Minh điểm mà không xuất tiết như thế, nhưng lại vẫn phải tuân theo giáo pháp Mật tông để truy cầu đệ tứ hỷ - cảm giác sung sướng nhất của dâm lạc thế gian, tuy có “Không tính kiến” hỗ trợ, nhưng Không tính kiến của anh ta lại đọa vào tầng thứ Tâm ý thức của thường kiến ngoại đạo. Bản chất của nó vẫn là pháp tham cầu dục lạc (khoái lạc dâm dục), hoàn toàn không liên quan gì đến Phật Bồ Đề. Từ đạo lý đó, mới nói Song thân pháp của Mật tông chỉ là người xuất gia tham pháp tại gia, thực sự phi Phật pháp.

Lại còn có chuyện dụ dỗ người nữ bằng câu chú và thuốc nữa, khiến cho người nữ trúng ý anh ta sinh khởi dâm ý (bị kích thích dục vọng) mà hợp tu với anh ta: “Họ có rất nhiều câu chú, bài thuốc, có thể dẫn dụ Không Hành (mẫu), tôi đều rất không tán đồng. Chỉ có Không Lạc thực sự tu đúng như pháp, thì Không Hành Mẫu thực sự tự cũng sẽ dẫn thân tới. Không Hành Mẫu thực sự đến rồi, Không Lạc thực sự đắc rồi, thì sẽ có điều kiện khai mở Trung mạch thực sự, cho nên không được làm bừa”. (32-398)

Qua câu trần thuật đó, đã có thể thấy rằng giữa các thượng sư Lạt Ma của Mật tông, có không ít người từng sử dụng thuật chú hoặc xuân dược (thuốc kích dục) để dụ dỗ người nữ vừa ý hành dâm với mình. Cho dù là người thực sự có thể tu đạt công phu như pháp theo thứ tự của Mật giáo, mà sau đó ngự nữ (cưỡi lên người nữ mà hành lạc) thì về bản chất vẫn là pháp tham cầu khoái lạc tình dục, vì họ muốn truy cầu đệ tứ hỷ, mà đệ tứ hỷ chính là cảm giác dâm lạc cao nhất ở Dục giới. Cái Không tính chứng được từ pháp dâm lạc đó, hoàn toàn không liên quan gì đến Không tính mà Phật thuyết. Cái Lạc chứng được từ pháp dâm lạc đó cũng khác xa so với cái “Lạc của Niết Bàn Bồ Đề” mà Phật tuyên thuyết. Cho nên mới nói pháp dâm lạc hợp tu song thân của Mật tông, kỳ thực là người xuất gia tham cầu dâm lạc của người tại gia, là người xuất gia tham pháp tại gia.

Còn đại Bồ Tát của Hiển tông thì là người tại gia hành pháp xuất gia, tôn giả Bà Tu Mật Đa trong “kinh Hoa Nghiêm” chính là người như vậy. Trong “kinh Hoa Nghiêm” chép rằng: Có chúng sinh tuy vì tham trước mỹ sắc mà đến gặp Bà Tu Mật Đa, nhưng có người vừa gặp là ngộ, có người thấy (nữ tôn giả) cười là ngộ, có người dắt tay là ngộ, có người hôn môi mà ngộ, có người ôm lấy thân là ngộ…thậm chí có người còn phải cùng vị ấy triền miên qua đêm mới ngộ được. Những người như thế, người mà vừa gặp đã ngộ là người có chứng cảnh rất cao, huệ lực rất mạnh; người mà thấy cười rồi mới ngộ thì thấp hơn người kia một bậc… cho đến những người hôn môi, cùng giường qua đêm rồi mới ngộ, tuy là người chứng ngộ, những chỉ có thể tự độ, chứng lượng rất thấp, chỉ có thể ngộ nhập trụ ở Thất trụ vị thôi.

Thế nhưng, pháp mà tôn giả Bà Tu Mật Đa khiến cho người ta chứng ngộ, không phải là pháp hợp tu song thân của Mật tông, không phải là khiến người ta coi Tâm giác tri vô niệm trong cảnh giới dâm lạc là Không tính, mà coi việc chứng được Thức thứ tám Thực tướng tâm là Không tính, khác xa với Mật tông, không thể đánh đồng một lứa được.

Pháp tu song thân của Mật tông, từ đầu chí cuối vẫn phải thực hiện nam nữ nhị căn tương hợp (quan hệ tình dục), mục tiêu của tu hành và chứng thực vẫn là cảm thụ đệ tứ hỷ của dâm lạc, còn cái “Không tính” ngộ được chỉ là sự không vô hình sắc (vô hình vô sắc) của Tâm giác tri và cảm xúc dâm lạc. Như thế mà nói rằng “Lạc Không bất nhị”, kỳ thực vẫn đọa vào trong “thường kiến” của ngoại đạo, thậm chí còn không bằng ngoại đạo tự tu thanh tịnh nữa, vì những người thường kiến ngoại đạo còn biết tu hành thanh tịnh phải tránh xa nữ sắc.

Vì duyên cớ đó, Mật tông bám duyên vào điển cố về Bà Tu Mật Đa trong “kinh Hoa Nghiêm”, chủ trương pháp của họ có thể khiến cho người ta chứng được Giải thoát cho đến Phật Bồ Đề, kỳ thực chỉ là những lời nói hư vọng mà thôi, bởi pháp của họ khác xa so với pháp của Bà Tu Mật Đa. Song thân pháp của Mật tông như thế không phải là Phật pháp, thì (chúng ta) phải trục xuất tà pháp đó ra khỏi Phật giáo, không để cho chúng đệ tử trong Phật môn tu học để tránh cho rất nhiều người học khác vì không biết nên đâm đầu vào tu, phạm phải Thập trọng giới mà đọa xuống địa ngục.

Phật trụ ở thế gian để dẫn dắt tứ chúng, cho nên buộc phải thị hiện tướng xuất gia, thân hành thanh tịnh cứu cánh, lìa xa các hành thế gian. Thế nhưng, Phật là người Nhất thiết trí, không phải là vì không biết (pháp) tà kiến của Mật tông nên không thể tu theo, mà đã phá tà kiến này ngay trong “kinh Lăng Già” rồi, thậm chí ngay từ đầu trong Tứ A Hàm đã nói tà dâm là pháp luân hồi dục giới rồi; đồng thời Phật còn tuyên thuyết pháp giao hợp nhị căn nam nữ là cảnh giới thấp nhất trong Dục giới, không thể nào vượt quá được tầng Đao Lợi thiên. Đã biết Tham đạo chắc chắn sẽ khiến chúng sinh luân hồi sinh tử trong Dục giới, thì sau khi Ứng Thân nhập diệt, sao có thể lại thị hiện “Kim Cương Trì Phật” để nói về pháp hữu lậu hữu vi có thể khiến chúng sinh luân lạc vào tầng thứ thấp nhất trong Dục giới chứ? Không thể có cái lý ấy! Cho nên, Mật kinh nói pháp hợp tu song thân tức thân thành Phật, bảo đó là pháp do Phật nói, tuyệt đối không phải là lời nói thật, tuyệt đối không phải là Phật pháp, nó chỉ là pháp do các thượng sư Mật tông lấy từ ngoại đạo, giả mạo danh nghĩa Thế Tôn để sáng tác ra các Tục kinh Tục điển mà thôi, không đáng để dạy.

Pháp như thế có bản chất là tà dâm, trong Mật tông thời xưa và thời nay, vốn đã có người thấy được tà kiến này, nên đã phá nó: “Tổ sư Hoàng giáo Tông Khách Ba vì muốn trừ bỏ những thói quen uế loạn của Mật giáo đương thời, tuy có đủ điều kiện của pháp song tu, nhưng chưa từng áp dụng pháp tu này, giới hạnh tinh nghiêm, trở thành điển phạm mẫu mực một đời (Bình Thực chú: Những lời này không đúng sự thật. Theo như chứng cứ trong tập 2, tập 3 thì Tông Khách Ba cũng chủ trương người xuất gia muốn thành Phật đạo thì cũng phải tu pháp này, thậm chí còn phải tu hành tinh tấn mỗi ngày 8 thời (16 tiếng), chỉ là đưa ra điều kiện rất nghiêm ngặt mà thôi). Khi ông ấy luận bàn về tu Song thân pháp, đã kiến nghị dùng tượng Phật nam tính và tượng Phật nữ tính, xem hình tướng để thay thế, nhằm tịnh hóa các loại căn chấp kiết sử của nhân tính, cũng để phá trừ dục chấp của hai giới nam nữ, đặc biệt khi chuyển sinh ở (giai đoạn) Trung âm thân thì có thể tránh bị mê hoặc mà đọa vào trong Lục đạo. Ngoài ra, Pháp vương phái Ninh Mã thời cận đại Long Khâm Ba cũng cho rằng Song thân pháp giao cấu nhục thể không phải là pháp tu hành thích hợp với người bình thường, ông nói: ‘Vì nhân duyên quán đỉnh trí tuệ thứ ba mà giáng hạ Minh điểm vân vân, anh cho rằng có thể giúp chúng ta tu hành từ thân thể cô ta (anh ta), nhưng cái đạo hữu lậu này đã lừa dối biết bao nhiêu nhà đại tu hành. Nương dựa vào đạo Giải thoát là điều mà tôi khẩn thiết khuyến cáo’”. (62-349)

Long Khâm Ba nói ra những lời khẩn khoản như vậy, đáng tiếc là những người trong Mật tông nhìn mà không thấy những lời lẽ này, tiếp tục tự xưng hơn hẳn Hiển giáo bằng pháp tu song thân, miệt thị rằng Hiển giáo không có pháp này, cho nên thường hạ nhục Hiển giáo chỉ là tu hành ở Nhân địa, dùng để xiển dương Mật tông, nói rằng hành môn của Mật tông là tu hành ở Quả địa. Thế nhưng, pháp hợp tu song thân đó của Mật tông, cho dù có người nào đó tu hết một đời, ngày đêm tinh tấn tu tập, có thể ôm người nữ mãi trong mấy chục năm, nhị căn mãi mãi không lìa, thường trụ trong dâm lạc đệ tứ hỷ, thì cái “Không tính kiến” anh ta chứng được vẫn tuyệt duyên với Kiến đạo Không tính kiến của Tam thừa Bồ Đề, đều không thể chứng được bất kỳ Kiến đạo nào của Tam thừa Bồ Đề. Đâu chỉ là không thể đoạn được Tư hoặc, mà thậm chí đoạn Kiến hoặc trong Kiến đạo cũng không đoạn nổi. Cho nên, các thày Mật tông nói có chứng trí đoạn hoặc, đều là nói suông, không thể lừa người được. Những người tu Mật pháp như thế, lẽ ra phải biết xấu hổ im miệng, xấu hổ khi gặp người mới đúng, chứ có gì đáng cao mạn đâu? Thế nhưng họ lại tự kiêu, sùng Mật ức Hiển, điên đảo đến cùng cực.

Giữa những người tu hành lâu năm của Mật tông có lời đồn rằng: Một thượng sư vô cùng danh tiếng XXX (tạm ẩn tên họ), lúc xả báo, hạ thể của ông ta nhất trụ kình thiên (dương vật dựng đứng), khiến cho những người có mặt dở khóc dở cười. Người mất hết luật nghi Phật tử như thế, đến khi xả báo ông ta còn quán tu Song thân pháp vô thượng Yoga, đó là do tà kiến muốn chứng “Không Lạc cứu cánh của đệ tứ hỷ để thủ chứng Báo thân Phật quả” ở Phật địa gây ra. Đó là một thứ tà kiến, không thể chấp nhận được, thế mà còn mất hết luật nghi Phật tử lúc lâm chung. Tất cả mọi Phật tử phải tránh xa thứ tà kiến này, đừng để bị nó mê hoặc, đi nhầm đường tối.

Ngoài ra, giáo phái chủ yếu của Đông Mật cũng bài xích pháp tu song thân, nên đã sinh ra xung đột về mặt tri kiến với Mật tông Tây Tạng, cho nên Thượng sư Trần Kiện Dân đã nói thế này: “Có một số Đạo sư của Chân Ngôn tông và một số người viết sách đã từng nói: Du già (yoga) tối cao của Mật thừa Tây Tạng không phải là giáo pháp của Phật Đà. Cũng có người cho rằng đại sĩ Liên Hoa Sinh không phải là tín đồ Phật giáo thực sự mà chỉ là một tín đồ Bà La Môn mà thôi! (Chú thích gốc: Thậm chí một số học giả lớn của phái Cách Lỗ Ba cũng nhận định như vậy). Một số vị Thái Đẩu (ngôi sao hàng đầu) của Phật giáo Nhật Bản bài xích pháp tu quán đỉnh thứ tư (Chú thích gốc: của Mật thừa Tây Tạng), nguyên nhân là nó (không?) có pháp bí mật quán đỉnh thứ ba, họ cho rằng đó là pháp tu rất tồi, rất không đạo đức”. (37-163)

Trong Mật tông ở Đài Loan hiện nay, cũng có người không tán thành “người học thông thường tu học Song thân pháp” như thượng sư Trịnh Liên Sinh tán thành tu học Song thân pháp có điều kiện. Dù là thời xưa hay thời nay, ở mảnh đất khai sinh ra Song thân pháp – trong Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, cũng luôn có người phản đối Song thân pháp như vậy, cho rằng như thế có hại cho phong tục văn hóa, hơn nữa còn là tà kiến trái ngược với đạo Giải Thoát. Vì thế mà bản thân Song thân pháp, từ cổ chí kim đều luôn có tranh luận. Nếu như vị thượng sư Mật tông xả thọ kia có được tri kiến như thượng sư Trịnh Liên Sinh thì cũng không dẫn đến việc mất hết nghi luật như vậy. Mật tông nếu tiến thêm một bước nữa, phá trừ tuyệt đối Song thân pháp, không chấp nhận “tu học Song thân pháp có điều kiện”, để có thể thực sự tránh xa được tà kiến của Song thân pháp thì Mật tông sẽ dần dần có thể quay về chính pháp của Phật giáo, thì đó là cái phúc lớn của người học Phật giáo từ nay về sau.

Thượng sư Trịnh Liên Sinh nói: “…bởi cái gốc của việc “con người sở dĩ làm người” là ở dâm dục, cho nên không thể giải thoát từ trong dâm dục, không thể thấy Chân tính. Qua đó có thể thấy Nghĩa đế chân thực của pháp tu song thân (quán tưởng), sao lại có cái lý đoạn dâm mà (lại tiếp tục) hành dâm? Cuối cùng, trích dẫn “Minh hối” trong “kinh Lăng Nghiêm” quyển 6 để thay cho lời kết của bài viết này: ‘Các ngươi tu Tam muội, vốn có thể ra khỏi Tam giới. Nếu như dâm tâm không trừ bỏ thì không thể thoát khỏi Tam giới. Dù có trí tuệ cao, có thiền định hiện tiền, nhưng nếu không đoạn trừ dâm tâm thì tất sẽ rơi vào ngạ quỷ đạo: Thượng phẩm thì làm Ma vương, trung phẩm thì làm ma dân, hạ phẩm thì làm ma nữ. Những loại ma quỷ này cũng đều có tín đồ đi theo, ai nấy tự xưng là thành đạo Vô thượng. Sau khi ta diệt độ, thời mạt pháp sẽ có nhiều loại ma dân này, thịnh hành khắp thế gian, quảng hành tham dâm, tự xưng là thiện tri thức, khiến cho chúng sinh rơi vào hố tà kiến tham ái, mất đi con đường tu Bồ Đề. Ngươi dạy thế nhân tu Tam ma địa, trước hết phải đoạn tâm dâm, đó là lời dạy thanh tịnh quyết định (chắc chắn) đầu tiên của Phật Thế Tôn Như Lai các đời trước. Cho nên, này A Nan! Người nếu không đoạn dâm tu thiền định, sẽ như nấu đá cát mà muốn thành cơm, trải qua trăm ngàn kiếp vẫn chỉ là cát nóng. Vì sao vậy? Vì đó không phải là gốc của cơm, chỉ là đá cát mà thôi. Ngươi cầu diệu quả Phật bằng thân dâm, cho dù có được diệu ngộ, vẫn là cái gốc của dâm. Có gốc thành dâm, luân chuyển tam đồ, tất không thể ra thì Niết Bàn Như Lai tu chứng bằng đường nào? Tất phải đoạn cả dâm cơ trên thân tâm, đoạn tính cũng không còn, thì mới có hy vọng ở Phật Bồ Đề. Nói như ta nói gọi là Phật nói, không giống như ta nói là ma Ba tuần nói’”. (62-349~350)

Tất cả các hành giả Mật tông đều nên kính cẩn ghi nhớ lời dạy đó của Thượng sư Trịnh Liên Sinh, đều phải cẩn ghi lời Phật dạy trong “kinh Lăng Nghiêm” đã trích dẫn đó, nhanh chóng tránh xa Song thân pháp, đừng để bị tà kiến của Mật tông mê hoặc nữa.

Lại nữa, người tu pháp tức thân thành Phật này, vì phải theo đuổi lạc xúc cao nhất, muốn thành “Phật cứu cánh”, nên bắt buộc phải cầu chứng đệ tứ hỷ. Thế nhưng, vì truy cầu lạc xúc tối cao đó, nên thường xuyên có người xuất tinh không ngừng mà táng thân mất mạng: “Người phụ nữ cắm kim thoa (cái thoa bằng vàng) trên đầu, không phải là trang điểm quá đà, mà là đề phòng khi cuồng phu xuất tinh không ngớt, thì chọc vào (huyệt) Hội Âm mới không mất mạng. (Chú thích gốc: Mấy người bạn xấu số là Trương Bá Liệt ở Bắc Bình, Phó Chân Ngô ở Thành Đô đều chết trên bụng phụ nữ. Những chuyện thế này, nên dạy cho phụ nữ trung niên. Nếu giữ bí mật mà không nói ra, thì có ích lợi gì đâu!)”. (34-310) Những người muốn cầu “thành Phật” ở Mật tông, lạc cực sinh bi, việc có ghi chép như vậy, thì việc chưa ghi chép chắc hẳn không ít, hành giả Mật tông nên biết mà cảnh giác.

Cái Lạc của Song thân pháp không phải là Đại Lạc mà Phật nói, mà do các thày Mật tông vọng thuyết rằng nếu có thể kéo dài cái Lạc của đệ tứ hỷ này trong mọi lúc không ngừng thì đó là đại Lạc ở Phật địa. Mật tông cho rằng Báo thân Phật đều thường trụ trong cơn dâm lạc này, cho nên họ cũng cho rằng tất cả Báo thân Phật nhất định phải là tượng song thân, vì thế Ngũ phương Phật mà Mật tông giảng đều là tượng Phật ôm người nữ giao hợp hưởng thụ dâm lạc mãi mãi. Ví dụ Tông Khách Ba viết rằng: “Trong “Trí thành tựu” cũng nói: ‘Cái Lạc do nhị căn sinh ra, nói ác là chân thực. Thắng Phật chưa từng nói: Đó là đại an lạc. Phàm thứ do nhân duyên sinh ra, đều không gọi là chân thực’. Người câu sinh thông đạt chân thực nghĩa của quán đỉnh thứ ba, lẽ nào không trái ngược với điều này? Đáp rằng: ‘Không có tội lỗi gì. Lời kinh văn đó là câu sinh trí lúc phá đạo, là câu sinh trí của Tự tính hoặc Tự thể. Chứ không phải nói câu sinh của quán đỉnh thứ ba không đạt chân thực, hoặc nói trong đó không có câu sinh trí’. Điều này giống như “Trí thành tựu kinh” sau này cũng nói: ‘Lạc tất cả bằng cái này, đều không phải Tự tính có, các Tự tính thiện thệ, là Tự tính liễu tri. Tôn quý trong tất thảy lạc, nên gọi là Đại Lạc. Đại Lạc không phải vô thường, Đại Lạc hằng thường trụ’, phá cái lạc phi chân thực kia, vì Chân thực Lạc là cái chỉ ở Phật địa mới có. Cho nên nếu dẫn kinh văn đó để phá cái lạc thông đạt chân thực, thì có lẽ tất cả mọi người học đạo đều không có lạc đó, cho nên, Chân thực Lạc, còn gọi là câu sinh Tự thể hoặc câu sinh Tự tính, nghĩa là không đợi nhân duyên công dụng, tùy ý vận hành tương tục tận vị lai tế”. (21-389)

Trong đoạn văn này, Tông Khách Ba chủ trương câu sinh lạc của Đệ tứ hỷ là cái đến cùng từ lúc sinh ra, không phải là cái do tu mà có. Rồi ông ta còn biện luận rằng: Đệ tam hỷ không phải là câu sinh hỷ, nếu như cái hỷ của quán đỉnh thứ ba mà là câu sinh hỷ, thì cái đệ tứ hỷ của quán đỉnh thứ tư và trong Song thân pháp tu sau đó không thể gọi là câu sinh hỷ nữa. Lại nói rằng: cái Lạc này là cái “có đầy đủ từ lúc sinh ra” của chúng sinh, chúng sinh liệu có chứng được đệ tứ hỷ hay không thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc có thể tính của cái Lạc này trong người chúng sinh hay không, cho nên nói câu sinh lạc của đệ tứ hỷ là pháp thường trụ, là câu sinh Tự thể, là câu sinh Tự tính, là cái liên tục vận hành tùy ý trong hết tương lai.

Thế nhưng những điều này khác xa so với Thức thứ tám Thực tướng tâm mà Phật thuyết. Ở đây nói câu sinh lạc như thế cố nhiên là có công năng năng thành trong thân mỗi người, nhưng Lạc pháp này lại không hiển hiện trước mắt chúng sinh mãi mãi toàn thời gian, mà phải đợi sau khi có nhân duyên thì mới có thể hiện hiện nó. Còn Thức thứ tám Thực tướng tâm mà Phật thuyết, cho dù chúng sinh có chứng được nó hay không thì Tâm Thức thứ tám cũng hiển hiện rõ ràng hằng thường, không từng bị che khuất một giây phút sát na nào, chỉ là người chưa ngộ thì không biết mà thôi, chứ người chân ngộ thì lúc nào cũng có thể hiện tiền quan sát thấy. Cái Lạc của đệ tứ hỷ phải nhờ có đủ các loại duyên, thì sau đó mới khiến cho hành giả Mật tông tu cho nó hiển hiện, rồi sau đó mới có thể hưởng thụ cái pháp xúc trần, chứ không phải là pháp vận hành. Còn Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật giảng thì liên tục không ngừng vận hành trong thân chúng sinh, chứ không phải là pháp trong Lục trần, đồng thời có thể được chúng sinh ngày ngày thọ dụng, vận hành nó, chỉ có điều chúng sinh ngày ngày dùng nó mà không thể biết nó, cho nên gọi là “nhật dụng nhi bất tri”. Cho nên, hai thứ đó hoàn toàn khác xa nhau.

Như Lai Tạng ở Phật địa vì biến nhất thiết thời (lan khắp mọi lúc) hiểu biết đầy đủ, nên cũng hiểu biết đầy đủ các pháp thế xuất thế gian, gọi là Nhất thiết trí trí của Nhất thiết chủng trí, thành bậc tôn quý của Tam giới, có đủ giải thoát sắc, tận vị lai tế vĩnh lợi chúng sinh mà không chướng ngại, cho nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả những chuyện này đều chứng tỏ Phật pháp chân thực khác xa với cái Đại Lạc đệ tứ hỷ của Song thân pháp trong Mật tông. Một bên là pháp bao hàm trong Lục trần, một bên là pháp có thể sinh ra Lục trần. Tông Khách Ba không biết chân lý này, đã đem cảnh giới dâm lạc đệ tứ hỷ nói thành Đại Lạc thường trụ bất biết, chủ trương dâm lạc của đệ tứ hỷ là câu sinh lạc, cách Phật đạo quá xa xôi!

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Trong “Tam thanh tịnh chân thực ca” viết: ‘Tôn không lỗi thường trụ, yêu trong tất thảy tham, Thế Tôn đại tham hỷ, ta tu chân thực tính’, nói không hề có lỗi lầm, là bởi đã đoạn tất cả các chướng và tập khí. Thường trụ là Tam thân thường trụ ở tận hư không tế. Đắc tất cả mọi tham dục ở Tất địa, có thể hành tham trước tất cả sự nghiệp hữu tình, cho nên là cái đại tham có đại bi vô duyên. Dựa vào pháp Vô tướng để sinh hoan hỉ, nên gọi là Đại hỷ. Người có thực hành “dựa chân thực”, nghĩa như nói trong ba (bài) tụng đầu. Đó là giải thích của luận sư Tịch Tĩnh, cho nên gọi cái có (âm) thanh đó là thiện (lành). Nhị pháp tính ca rằng: ‘Thắng pháp tối thanh tịnh, vốn giải thoát Như Lai, Phổ Hiền tất thảy tính, tu Bồ Đề tát đỏa”. Do có đầy đủ thanh tịnh không thoái chuyển, nên gọi là tối thanh tịnh. Bát Niết Bàn là sự thắng diệu trong tất thảy pháp, tối thắng nhất trong các loại thắng diệu gọi là Niết Bàn Phật, vì Tự tính đó nên gọi là thắng pháp. Do Tự tính thanh tịnh nên gọi là vốn dĩ giải thoát; hiểu rõ như thực về Pháp tính chư pháp gọi là Như Lai. Hiền là thiện, Phổ là vô dư, từ cái này có thể sinh ra cái kia vậy. Pháp giới là tất thảy pháp tướng hoặc tự tính, cho nên gọi là tất thảy tính. Người có tâm thể tính Bồ Đề, gọi là Bồ Đề tát đỏa”. (21-323)

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg