The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 9: Trừ lậu, chứng Thiền định, viên mãn Bồ Đề của Mật tông -4

 Người tu Song thân pháp này, còn phải có tiền hành, chính hành, hậu hành… Cần phải lưu ý mà tu, sau đó có thể đắc Kiến địa này, tức “Thứ đệ Tứ hỷ, Xứ Tứ hỷ, Sở đoạn Tứ hỷ, Tự tính Tứ hỷ”.

“Tiền hành” là chỉ các pháp phải tu trước khi thực tu:

“Tiền hành: Thân có đủ hành chỉ tiền hành, tay phải nhật, tay trái nguyệt, đan nhau úp lên hai đầu gối, trước mặt chữ Hồng, âm Hồng dài, Hồng ngắn chín lần, trái phải mỗi bên thanh tịnh ba lần, tổng cộng ba lượt. Khẩu quyết rằng: “Xuất tam và nhập tam, luân đẳng vi tịnh trị, nhược nhật đẳng đệ tam, ẩn nhập bí xứ khổng”, nghĩa là: Đầu tiên dùng thức ăn tinh túy điều chế bổ giới (bổ dưỡng bằng thức ăn để tinh dịch sung mãn), tìm chỗ cao, ngồi xếp chân cố định, lòng bàn tay phải là đàn thành Nhật luân, lòng bàn tay trái là đàn thành Nguyệt luân, giao thoa đặt lên trên hai đầu gối, đó gọi là Thân yếu. Còn về Tâm yếu, tất cả tịnh phần ở hạ thân hoặc Mật xứ, từ trong Trung mạch dẫn ngược lên trên như là ống dẫn nước. Về Ngữ yếu, là thực tu phát âm Hồng dài, Hồng ngắn, ba lần ở Trung mạch, tiếp đến ba lần bên phải, rồi ba lần bên trái, rồi ba lần ở giữa. Tính cho tất cả ở Trung mạch chín lần, hai mạch trái phải sáu lần, tổng cộng là mười lăm lần. Lại dẫn khí qua hai lỗ mũi, xuất khí ba lần, nhập khí ba lần, tổng cộng sáu lần, như công thức đã thuật ở trước, hiểu rõ chính xác. Về năng lượng giới (tinh dịch) của anh ta, bảo vệ ba ngày, tức là tịnh trị luân. Nếu đã hành được ba ngày thì có thể ẩn nhập vào trong lỗ Mật xứ, hành khí ở dưới đắc tự tại. Người đại điều khí cực thượng phẩm, cũng chỉ cần nửa ngày là có thể tu thành như thế. Cứ thế mà làm, nếu có đau đầu, buồn nôn, trong miệng uất nhiệt thì nên kéo hoãn lại, nên dùng thức ăn để bồi bổ thân giới. Nếu đại tiểu tiện bí và đau, hành pháp đứng ngược là có thể trừ bệnh, đó là đại cốt yếu.

Chính hành: Từ những việc như hành gia trì (từ việc hành dâm sinh lạc), lược rút la sát đạo, mút thật mạnh hai ngón tay giữa, hai mắt đảo lên trên, làm như thế có thể nhiếp Minh điểm (dùng phương pháp này có thể nhiếp trì tinh dịch để chiết nó lên trên). Lại thở dốc mạnh để nói, thực hành pháp hoàn tội ở thân khác, làm như thế cũng có thể nhiếp Minh điểm. Ý nghĩa của nó là: để gia trì chùy liên vân vân, thực hành Thân ngữ đẳng quân và Sở dục đẳng quân, ban cho thứ tự quán sát sắc đẹp của Minh Phi thanh tịnh, lợi ích ít. Lại đẳng phân tương phối “ba la” và “ích trí” (Cần chú ý phối hợp dâm dịch hai bên nam nữ, không thể để cho một bên quá nhiều hoặc quá ít), thì anh lắc tôi xát, uyển chuyển co duỗi, tức dùng tham hỏa để khiến Minh điểm giáng (tức là tham cái tham thụ hưởng cực khoái tình dục để xuất tinh), lạc đó không thể chia. Thế nhưng, vì bảo hộ Minh điểm, thì… (Chú thích gốc: Pháp thực tu lược bỏ. Bình Thực chú thêm: Xem các tiết trong Chương này sẽ rõ…). Thân tâm thả lỏng, bình thản mà trụ. Vào lúc này nhiếp Minh điểm đấy (Vào lúc này nên quán tưởng và hút chiết dâm dịch vào thân để thượng thăng vào Trung mạch, sau đó đưa đến toàn thân, phát tán đều khắp. Chi tiết xem phần thuật ở trên). Xét về thở mạnh để nói, hoàn tội khác của thân dùng để che ngăn thượng khí. Thực hành như vậy, nếu lạc ít, thì nên rút nhập. Lúc không thể chia lìa, thì cần trì (để tránh xuất tinh quá sớm mà không thể chứng được đệ tứ hỷ chí lạc), đó gọi là “Minh điểm giáng lại trì, trì lại tăng”.

Hậu hành: Sau đó vì Minh điểm không chuyển, nên dùng Hậu hành. Là chỉ việc có thể đồng thời “Hồi” và “Biến” Minh điểm, như voi rống, hổ gầm, thú hộc, cáo kêu. Theo dẫn đạo thứ tự ở rốn, tâm, hầu, đỉnh, dùng “Giải thoát ấn” để bình lặng cơ thể. Ý nghĩa của nó là: Lúc hậu hành đẳng nhập, thân ngồi già phu (xếp chân), tư duy Minh điểm từ Mật xứ dẫn nâng đến chỗ rốn, chú ý vào rốn. Nói “voi rống” nghĩa là dùng âm “xí” như voi rống để dẫn đạo, sau lại chuyên chú từ rốn đến tâm. Nói “hổ gầm” tức là dùng âm thanh “ô hô” như hổ gầm để dẫn đạo, chuyên chú đến tâm. Nói “thú hộc” là dùng âm thanh “ha ha” thốc ra để dẫn đạo, thức chuyên chú vào hầu đến đỉnh. Nói “cáo kêu” là dùng âm thành “ha hi” như tiếng cáo kêu để dẫn đạo. Còn về Giải thoát ấn, tức như lúc thực tu, lắc đầu rùng mình.

Cộng pháp trong hai đạo phương tiện quảng lược là tứ bất thiện xảo trong khẩu quyết lìa Minh điểm: Một, Giáng bất thiện xảo, Điểm tốc thất (Khi giáng hạ Minh điểm đến dương vật mà sinh khoái lạc, không biết thiện xảo, khiến xuất tinh ra ngoài mà không thể giữ lâu khoái cảm); Hai, Trì bất thiện xảo, lạc đoản xúc (Khi giáng xuống hạ thể sinh lạc, tuy chưa xuất tinh nhưng lại kết thúc lạc thụ, nhưng vì không biết thiện xảo mà duy trì bế tinh, khiến cho thời gian trụ trì dâm lạc rút ngắn, không thể trụ lâu trong cơn khoái cảm); Ba, Hồi bất thiện xảo, thủy liên liên (Do hồi hộ không có thiện xảo, dẫn đến dâm thủy quá nhiều, khiến cho cảm thụ dâm lạc không thể đạt đến cảnh giới tốt nhất); Bốn, Biến bất thiện xảo, bệnh tư yên (Sau khi đạt đến đệ tứ hỷ và hưởng thụ dâm lạc tối cao rồi xuất tinh, nhiếp trì Minh điểm hút chiết lại vào trong thân, nhưng vì không biết hồi nhập vào các nơi trong thân để nó lan khắp toàn thân, do đó mà sinh ra bệnh tình). Bốn pháp thiện xảo dùng đối trị (tứ bất thiện xảo) là: Một, Giáng thiện xảo là từ từ như con rùa bò, tứ hỷ lần lượt sinh; Hai, Trì thiện xảo là thân tam biến và ngữ nhất biến; Ba, Hồi thiện xảo là bàng sinh tứ biến, tức xúc minh…; Bốn, Biến thiện xảo là dùng Sư tử giải thoát ấn. Thân tam biết tức là… (Chú thích gốc: Pháp thực tu lược bỏ). Ngữ nhất biến là nói với hơi thở mãnh liệt, lại lấy khí buộc eo như quảng đạo. (Chú thích gốc: Phần “Pháp thực tu lược bỏ” trong này, liên quan đến thực tu quá nhiều, nên thỉnh cầu thượng sư)”. (61-285~288)

Hành giả Mật tông áp dụng các biện pháp thiện xảo để tu hành thực tế, theo đó có thể đắc tông thú huệ quán – Không Lạc rộng hẹp: “Tông thú huệ quán là Không Lạc rộng hẹp. Với pháp thoát chốn khổ luân hồi, tận mọi khả năng và điều kiện để chứng đắc Không Lạc nên gọi như vậy. Nói một cách tổng quát là thuần thục sức mạnh Không Lạc giác thụ cho đến Địa thứ 11 và Địa thứ 12 của đạo xuất thế gian”. (61-292)

Không Lạc lược hẹp và Không Lạc quảng diệu như thế, có thể khiến cho hành giả Mật tông chứng được “Lục địa, Thất địa” cho đến “Đẳng giác địa, Diệu giác địa”, cho nên mới nói “thuần thục sức mạnh Không Lạc giác thụ cho đến Địa thứ 11 và Địa thứ 12 của đạo xuất thế gian”. Thế nhưng, Bồ Tát Đẳng giác, Diệu giác của Mật tông như vậy, lại hoàn toàn không thể hiểu được Thức thứ tám A Lại Da mà Bồ Tát thất trụ vị của Hiển giáo chứng được, mà chỉ coi Minh điểm là A Lại Da; hoàn toàn hiểu sai về trí tuệ Bát Nhã của Phật Bồ Đề, coi chứng được trí tuệ thế gian của dâm lạc Lạc Không bất nhị là trí tuệ Bát Nhã của Phật giáo; hoàn toàn hiểu sai về nội hàm của đạo Giải Thoát của bên Nhị thừa, lại coi Tâm giác tri nhất niệm bất sinh là giải thoát, kỳ thực vẫn rơi vào trong Ngã kiến; hoàn toàn không hiểu gì về Đạo chủng trí mà Bồ Tát Sơ địa của Hiển giáo chứng được, lại coi việc quán thông Trung mạch và cảnh giới rõ ràng của Minh điểm quán tưởng ra là cảnh giới “Sơ địa”; hoàn toàn không hiểu nội hàm của Thập độ Ba La Mật mà Bồ Tát Đẳng giác, Diệu giác chứng được, lại coi “Không tướng” do dâm lạc quán tưởng ra là Không tính mà bên Hiển giáo chứng được.

Như thế mà nói chứng được Phật Bồ Đề, thật đúng là ông nói gà bà nói vịt, hiểu lầm vô cùng lớn, đâu chỉ là khoảng cách ngàn vạn vạn dặm? Thế nhưng các đại sư, pháp vương của Mật tông nghiễm nhiên không biết đến sự khác biệt đó, lại coi cảnh giới Dục giới hiểu lầm đó là đạo thành Phật, rồi chỗ nào cũng hạ thấp sự tu hành của các Bồ Tát bên Hiển giáo chỉ là tu hành Nhân địa, là không cứu cánh; tự xưng Mật pháp là pháp tu hành Quả địa, cho rằng song thân hợp tu cao siêu hơn cả pháp tu hành đích thực của Hiển giáo, điên đảo đến như vậy, có thể nói là không gì sánh bằng nữa.

Lại nữa, pháp tu hành như thế, đến khi lâm chung có thể sinh ra “Thắng Không Lạc, thành Kim Cương tát đỏa”, cũng có thể đắc quả vị Pháp thân – cứu cánh thành Phật: “Quả: quả Huệ quán là quả Pháp thân, việc này đã thuật ở phần quả vị, ở đây tạm dừng”. (21-293)

Phần thuật về quả vị thì nói thế này:

“Quyết đoán xuất thế gian mạch, trong Bản tụng nói: ‘Từ đầu đến cuối ở các địa, mạch kết ở lần quán đỉnh thứ ba, quyết đoán bằng khai mở’, tức hai mạch tinh huyết giao nhau ở 32 phân vị trong Trung mạch, cho nên có 32 mạch kết tâm khí tịnh phần hành tiến và buộc tụ, dựa vào 12 liên nữ hỷ đẳng (dựa vào 12 người nữ có đầy đủ chủng tính liên hoa có thể khiến người ta chứng đắc Sơ hỷ…), khai mở mạch kết thứ nhất bằng yếu quyết Tứ chính đoạn, bước vào Sơ địa Cực hỷ địa. Khi mở đến mạch kết địa thứ 12 Đại trí địa, gọi là quyết đoán. Việc này phải dựa vào khí Minh điểm mới thành. Dùng sức lúc khai mở kết thứ nhất để dẫn đạo hay khi dùng yếu quyết quán đỉnh thứ tư đến địa thứ 10 để mở mạch kết thứ 30, ở mỗi địa, vì đắc công đức đặc thù của mỗi địa, bắt đầu từ Đỉnh luân, mở mạch kết thứ nhất, lại nhờ công đức của bản thân địa này hơi tăng trưởng, trong Chính hành, dùng sức thọ dụng để mở mạch kết tiếp theo. Lại nữa, vì công đức của bản thân địa này tăng trưởng vô dư (tăng hoàn toàn) mà hiện ra nhân vô tăng trưởng, lúc chung kết thì hoàn toàn viên mãn, đến khi hòa nhập thì mở mạch kết thứ nhất. Khi đăng lên các địa, mỗi lần mở ba cái ba mạch mà quyết đoán, mà khí và Bồ Đề tâm thì kiên cố không ly tán. Như vậy, cởi mở 32 mạch, vì sinh ra chứng ngộ 12 địa, thành tựu đạo xuất thế gian, đó là quyết đoán nội mạch kết. Lúc này cái sinh ra là:

Ở chỗ Tổng mạch kết hai mạch tinh và huyết quấn nhau thành bó trong Trung mạch, nó dùng tâm khí tập nhiếp lên đó, giác thụ của đại trì mạch hiện ra vô biên đó có thể sinh ra đau đớn, vì nó thực hiện tịch chỉ, nên phải quyết đoán ngoại mạch kết. Đó là lời dạy giản lược bản tụng, là sáu pháp truyền thụ do thượng sư Văn Thù nói. Hiện là một bổ đặc già la (chúng sinh), muốn hiện chứng chính giác viên mãn, cần phải được các tổ sư truyền tai (khẩu truyền) liên tục không dứt, cho nên dạy bốn loại truyền tai, tức bản tụng nói câu “nhĩ truyền bốn bất đoạn của Bí mật chú”. Tứ nhĩ truyền này gồm: Hà bất kiệt quán đỉnh, Gia trì tương tục bất thất, Chương tiết dạy (yếu) quyết không rối loạn, Tâm kính tín đầy đủ.

Hà bất kiệt quán đỉnh chia thành ba: Hà bất tuyệt quán đỉnh Nhân vị, Hà bất tuyệt quán đỉnh Đạo vị, Hà bất tuyệt quán đỉnh Quả vị. Hà bất tuyệt quán đỉnh Nhân vị là: Khoảng từ Kim Cương Trì Phật đến Tự tính đạt thành, cần phải có một trong ba loại thượng trung hạ dạy dỗ của bề trên thì mới được Hà bất tuyệt quán đỉnh. Hà bất tuyệt quán đỉnh Đạo vị: trong ba phẩm thượng trung hạ, thượng phẩm tu tứ tọa, mỗi tọa đều phải viên mãn quán lực thụ trì; trung phẩm tu tam tọa, mỗi tọa cũng phải như trên; hạ phẩm tu nhị tọa, mỗi tọa cũng phải như thế. Đạo thế gian trì vô lượng quán lực, đạo xuất thế gian thì trì quán lực tương tục bất đoạn. Hà bất tuyệt quán đỉnh Quả vị: Sở y đắc 13 địa, Năng y hoàn toàn thanh tịnh địa thứ 10, hai thứ nối liền đồng thời giải thoát, thụ trì tứ quán hòa nhập tứ hành. Tóm lại, có thể hoàn toàn viên mãn đạo quán đỉnh.

Gia trì tương tục bất thất: tức có đủ Tự tính bốn mật chú tế. Một là Thực tu tế: Người muốn dựa vào pháp môn thực tu yếu quyết truyền tai của các thượng sư để tu thật gọi là “Thực tu tế”. Hai là Giác thụ tế: Theo pháp thực tu thực hành tất cả 15 loại giác thụ, gọi là “Giác thụ tế”. Ba là Gia trì tế: Tâm khí tập nhiếp để gia trì liên tục, là gia trì nội Không hành, như đối phương cũng gia trì tất cả ngoại Không hành, như thế họa hoạn mới không sinh, cố tật giảm dần, can nhiễu trong ngoài không sinh, dần dần không chấp bát pháp, gia trì uy đức bạt trừ các bệnh khổ của chúng sinh khác và ma ngại (chướng ngại do ma quỷ gây ra), không gì không sinh, gọi là “Gia trì tế”. Bốn là Thành tựu tế: Anh ta tạm thời đạt được thành tựu tứ tông thú, đến cứu cánh thì đắc thành tựu tứ thân quả, gọi là “Thành tựu tế”. Đó là thực tu dựa vào các quyết yếu truyền tai của các tổ sư.

Chương tiết dạy (yếu) quyết không rối loạn: Khi tập giới bằng tam hội lý, khi các ma như La Sát và những việc không thuận lợi xảy ra như tai nạn, suy bại, giống đi trên các con đường hiểm như bãi nước, cầu yếu, hiểm quan…hiểu rõ tất cả những thứ đó đều là đạo và duyên khởi của mình, dùng thiền định thuần thục để trừ bỏ chướng ngại tĩnh lự, lấy Thục thức lưu nan trừ khiển ma chướng, học biết các công đức và tội lỗi, đó gọi là sự truyền dạy biết trì phiền não để thành tựu.

Tâm kính tín đầy đủ: Khi gặp các chướng ngại như quỷ hoặc La Sát đánh đập, và sự hiển hiện các thành tựu như nhìn thấy thân Như Lai, tất cả các tự tính nghi ngờ lưỡng lự, đều do tác dụng giác thụ duyên khởi hợp nhau của khí trong Trung mạch trong thân ứng hiện mà sinh ra. Tất cả những thứ đó được sinh ra đều là đạo và duyên khởi của bản thân mà thượng sư đã chỉ bảo, cho nên phải sinh khởi tín niệm đặc biệt, nhớ đến thượng sư và Phật bằng suy nghĩ không điên đảo, không khác nhau. Phần trên là dạy về tứ nhĩ truyền trong quyết yếu truyền tai”. (61-376~381)

Như vậy, phái Tát Già cho rằng khi hợp tu với người khác giới, nếu khi có thể cởi mở được mạch kết thứ nhất trong Trung mạch thì tức là cởi được kết (nút thắt) thứ nhất. Cởi được kết thứ nhất tức là Kiến đạo, tức là “Sơ địa Bồ Tát”. Thế nhưng, cởi kết thứ nhất nói trong pháp Đại thừa của Hiển giáo tức là đập vỡ tan được vô thủy Vô minh – khai ngộ Minh Tâm – chứng được Chân thực tướng của thập bát pháp giới, như thế gọi là cởi kết thứ nhất, hoàn toàn khác với cởi kết của Mật tông. Trong “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” của phái Tát Già thì coi việc mở mạch kết trong Trung mạch và các mạch khác là chứng cứ thủ chứng công đức ở các địa, thực sự hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng trong Phật pháp cả, chỉ là lồng ghép các danh tướng (danh từ) quả vị ở các địa Bồ Tát trong Phật pháp vào để mê hoặc người học và tự phụ. Thày trò cứ thế theo đó mà xoay vần phụng thừa, tự nâng cao mình và hạ thấp người khác, tạo thành nghiệp đại vọng ngữ, nghiệp phỉ báng chính pháp, nghiệp phỉ báng hiền thánh…ngu không thể ngu hơn.

Chứng lượng ở các địa như thế của Mật tông đều rơi vào trong cảnh giới hữu vi pháp của Dục giới, không từng tương ứng một chút xíu nào với pháp vô vi, pháp vô lậu, thế mà lại nói mình đã chứng được Sơ địa, chư địa và thậm chí là Phật địa. Trước loại tôn giáo đầy hư vọng tưởng tượng, chuyên lồng ghép các danh tướng quả vị tu chứng trong Phật pháp như thế, những người có trí vì sao lại tin họ không chút nghi ngờ? lại còn kéo đám theo nhau để tu? Quả thật là không thể hiểu nổi, chỉ có thể gọi đó là mê tín mà thôi.

Trước đây khi tôi thường lược bình Mật tông, thì các thày Mật tông mỗi lần đều nói: “Tiêu Bình Thực không hiểu Mật pháp, những gì nói trong sách Mật giáo đều là pháp biểu tướng (bề ngoài), cho nên không liễu nghĩa, không cứu cánh, chỉ có pháp nhĩ truyền – khẩu quyết của thượng sư – mới là pháp cứu cánh. Mà pháp khẩu quyết này thì Tiêu Bình Thực không được nghe, cho nên những lời bình về pháp nghĩa Mật tông của Tiêu Bình Thực không phải là những lời lẽ đúng sự thật”.

Thế nhưng, các khẩu quyết khẩu nhĩ tương truyền đời đời của thượng sư tất cả các tông phái Mật tông thực tế đều thuộc pháp ngoại đạo, đem cảnh giới tu chứng của ngoại đạo pháp lồng với danh tướng quả vị trong Phật pháp, dùng để huyễn hoặc người tu học, hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng Phật giáo thực sự. Nay trong quyển sách này, trước sau ba tập chỗ nào cũng nêu ra chứng cứ pháp tu khẩu quyết của Mật tông, để những người học trong Phật môn hiểu rõ được sự tà trái, hoang đường của khẩu quyết nhĩ truyền bên Mật tông, thể hiện đầy đủ bản chất ngoại đạo của thày trò Mật tông họ, từ đây có thể không còn bị họ mê hoặc, chuyển sang Phật giáo chân chính để tu chính hành. Đó cũng là công đức của các thày Mật tông đã công bố khẩu quyết này vậy.

Nay quan sát cảnh giới chứng lượng “Văn Thù lục pháp, nhĩ truyền tứ pháp” của phái Tát Già – phái có tổ chức pháp nghĩa hoàn chỉnh nhất của Mật tông, các thày trò Mật tông họ dựa theo đó mà tu hành để thành cứu cánh Phật, và cái “thành tựu Tứ thân quả” mà họ chứng, thì vẫn chưa thể biết tý chút gì về trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị trong Biệt giáo. Đã không biết trí tuệ Bát Nhã thô thiển mà các Bồ Tát thất trụ vị chứng được thì nói gì đến chuyện có thể chứng được trí tuệ Bát Nhã Đạo chủng trí ở Sơ địa? Còn không biết gì đến trí tuệ Bát Nhã ở Sơ địa mà nói thành tựu Tứ thân quả ở “Phật địa”, thậm vô lý!

Người tu trong Lạc Không song vận để “vong Ngã – quên mình” như thế, không thể nói là đã chứng được Vô ngã. Cảnh giới Lạc Không bất nhị mà người Lạc Không song vận chứng được đó chỉ là tri kiến của phàm phu ngoại đạo, rơi vào trong tham trước dâm lạc của Dục giới, nói suông là lấy dục chặn dục, kỳ thực chỉ là đám tham dục nặng mà thôi. Bởi thày trò Mật tông thâm nhập tu học Mật pháp, đều là tham cầu Câu sinh hỷ tối cao trong Song thân pháp, mà Câu sinh lạc tối cao chính là cảm xúc dâm lạc mãnh liệt nhất trong Dục giới.

Những người đó nếu không thể chứng được cảm giác dâm lạc mãnh liệt nhất này thì sự tu chứng Lạc Không song vận, Lạc Không bất nhị của họ không phải là thành Phật cứu cánh. Cho nên, các hành giả tu lâu năm trong Mật tông, nhất định sẽ dựa vào tri kiến đó để cầu chứng cảm xúc dâm lạc lớn nhất trong Dục giới. Người truy cầu cảm giác dâm lạc lớn nhất trong Dục giới tức là người tham trước Dục giới pháp, vẫn còn chưa thể giải thoát khỏi sự trói buộc của cảnh giới Dục giới, huống hồ có thể chứng được quả Giải thoát? Những người hoàn toàn hiểu sai về tu chứng quả Giải thoát như thế mà nói mình đã chứng giải thoát, liệu có cái lý ấy chăng? Còn chưa chứng được trí tuệ Bát Nhã thô thiển của các Bồ Tát thất trụ vị, huống hồ có thể chứng được quả báo Tứ thân của Phật địa? Tuyệt đối không có cái lý ấy! Qua đó có thể thấy pháp tức thân thành Phật và giải thoát ngay đời này của Mật tông đều là hư ngôn do vọng tưởng chính mình tạo ra, hoàn toàn không có liên quan gì đến Phật pháp cả.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Ca-ba-la (tiếng Tạng là kapala), là một loại pháp khí làm bằng đầu lâu người, còn gọi là Nội cúng lô khí, Nhân đầu khí, là pháp khí dùng trong nghi thức quán đỉnh của bộ Vô thượng Yoga. Đây là một trong những pháp khí thường dùng trong Phật giáo Tạng truyền. Loại bát (pháp khí) này trong phái Tính Lực và phái Thấp Bà (Siva) của Ấn Độ giáo cũng có. Mật tông Tây Tạng rất thịnh hành dùng xương cốt người để chế thành các loại pháp khí, nhưng đầu lâu để chế thành Ca ba la này bắt buộc phải làm từ xương sọ của Lạt Ma tu hành có thành tựu, chế tác dựa theo di nguyện của ông ta khi còn sống.

[2] Chú thích của người dịch: Hề Lỗ Cát, hay còn gọi là Hách Lỗ Cát, Hắc Lỗ Cát, Hắc Như Ca (tiếng Phạn là Heruka, tiếng Tạng là Khrag’thung), là thần Đại Lực Kim Cương được tin thờ trong Phật giáo Tạng truyền, là một trong những Bản Tôn được tôn thờ trong bộ Vô thượng Yoga, thuộc về Phẫn Nộ Tôn, mà Phật giáo Hán truyền gọi là Minh Vương. Hắc Lỗ Cát, trong tiếng Trung và tiếng Tạng đều dịch ý là “Kẻ uống máu”, nhưng trong tiếng Phạn không có ý này. Trong Mật tục, nó được hình dung là “Người bảo vệ sự giàu có đang bay lượn trong không trung”. Bộ Vô thượng Yoga cho rằng, Hắc (He) đại diện cho Không tính, Lỗ (ru) đại diện cho Đại Lạc, Cát (ka) đại diện cho sự viên dung của Đại Lạc và Không tính. (Theo https://zh.wikipedia.org/wiki/%E8%B5%AB%E9%AD%AF%E5%98%8E)

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31518


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg