The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 7: Lấy âm bổ dương – chiết xuất Minh điểm từ thân người khác giới -3

 Như trên đã nói, Minh Mẫu phải cùng nam hành giả dẫn sinh Tứ hỷ (bốn loại dâm lạc), đồng thời tu “Không Lạc song vận”, để trụ lâu trong cảm giác bốn loại cực khoái tình dục (Tứ hỷ) mà quán sát “Lạc Không bất nhị”. Trụ lâu trong cảm xúc dâm lạc như thế, khiến cho dâm lạc không ngừng hiện tiền để hưởng thụ, lại phải có được cái “Kiến địa” với nội dung “Dâm lạc bản tính thanh tịnh, vì dâm lạc vô hình vô sắc nên nó là Không tính” đồng thời tồn tại, như thế gọi là “Không Lạc song vận”.

Pháp này phải tinh cần tu luyện, không được giải đãi (lười biếng). Cứ thế cho đến khi có thể trụ trong dâm lạc như vậy bất cứ lúc nào, tức là đã thành tựu Đại Lạc ở Phật địa, đã thành tựu “Báo thân”. Báo thân Phật của Mật tông đều thường trụ trong “Đại Lạc” như thế cả. Những pháp này đều thuộc về pháp Ý dâm, chẳng khác gì vọng tưởng dâm ý (thủ dâm tư tưởng) của chúng sinh phàm phu, sao có thể gọi là chính tu hành trong Phật pháp đây?

Thứ hainữ hành giả Mật tông tự tu trên ngón tay: “Pháp tự tu trên ngón tay giống với pháp tu phần trên” (34-570). Tức là khi quán tưởng, không thể sinh khởi dâm lạc, hoặc có sinh khởi dâm lạc nhưng không thể đạt cực khoái tình dục, thì có thể dùng thêm pháp thủ dâm để đạt cực khoái tình dục và trụ lâu ở trạng thái đó. Pháp quán hành tu trong này tương đồng với pháp tu đã nói ở trên. Duy chỉ có khác là phải dùng thủ dâm để gia hành, cho nên gọi là “tự tu trên ngón tay”.

Thứ ba, pháp tự tu bằng vật mềm: Nghĩa là nếu như dùng pháp thủ dâm mà vẫn không thể sinh khởi dâm lạc đầy đủ, thì có thể áp dụng pháp gia hành này, để dâm lạc được sinh khởi, hoặc khiến cho dâm lạc nhanh chóng đạt đến cực khoái tình dục:

“Pháp dùng vật mềm, nghĩa là sử dụng một ống trúc (loại khá nhỏ) dài chừng năm tấc, trong đó nhét dương chùy (Chú thích gốc: là dương vật dê chưa cắt tinh hoàn), Minh điểm mao loa (tinh dịch con lừa), Minh điểm người nam vừa ý (tinh dịch người nam được kính ngưỡng trong lòng) (tất cả nhét vào trong ống trúc), bên ngoài lấy len quấn, lấy nắp đậy lại. Ngoài ra lại bọc lụa, hoặc bọc áo, to nhỏ cỡ như chùy (mức độ lớn nhỏ tương tự như hạ thể - dương vật nam sau khi cương cứng), dùng sáp vàng bôi lên, khiến cho nó mềm mại không làm tổn hại cho hoa sen (lấy sáp bôi lên cho nó mềm ra, để khi sử dụng không gây tổn thương cho hạ thể - âm đạo của chính mình). Ngoài ra lại bôi thêm chất bí mật (Chú thích gốc: Thầy bảo là không biết. Kiện Bình nói: Có lẽ là chất bôi trơn trong pháp của người nam), phát đại Bồ Đề tâm, quán tưởng Dũng sĩ vừa ý (tưởng tượng đến người nam khiến mình vui vẻ), thực hiện các loại tham hành (khi quán tưởng, tay cầm đạo cụ dương vật tự tạo để làm các động tác khiến mình cảm thấy dâm lạc). (Sau khi) liên hoa (hạ thể) tiết ra dâm dịch, thì gia trì Mật xứ tự tha (tăng cường hành vi thủ dâm đối với hạ thể của mình và hạ thể người nam tưởng tượng), để Phật Phụ mẫu bình đẳng trú (khiến cho Phật Phụ, Phật Mẫu trong hạ thể quán tưởng ra giao hợp và cùng mình đồng thời được trụ vào trong dâm lạc cực khoái tình dục). Thân mình hơi ngửa về sau, lấy tay trái ôm phần cẳng dưới, tay phải cầm vật mềm (tay phải cầm đạo cụ dương vật tự tạo), trước hết phơi nóng dưới nắng mặt trời, cho nó mềm và ấm nóng (để sáp ngấm vào đạo cụ, khiến nó mềm mại không gây tổn thương cho liên hoa của mình). Sau đó tiến hành các tham tướng trên dưới, trái phải ở hoa sen (thực hiện các động tác thủ dâm trên dưới, trái phải ở hạ thể mình khiến cho sinh khởi dâm lạc): (vì dâm lạc mà) sinh suyễn (thở dốc), thân run…Rồi dùng chùy này thâm nhập từ từ vào, từ dưới đút lên trên vào trong (âm đạo). Khi đạt đại an lạc (đạt cực khoái tình dục), mọi rung động ở hạ thân đều ngừng lại, nhìn chăm chú vào thượng sư Không hành Kim Cương ở trên Đỉnh (đầu), mắt chuyển (mắt nhìn vào trong). Khi lạc tán mất thì lại hành tiếp, cơn dâm lạc lên cao thì lại làm cho dịu lắng, cúng dường ngũ Không hành trong mạch (nếu lạc xúc bị suy yếu mất đi thì lại tiếp tục hành dâm, lạc xúc nếu quá mạnh thì lại thư giãn, từ từ mà hành. Ở trong cảnh giới đó, quán tưởng lấy lạc xúc trong thân mình để cúng dường Dũng sĩ và Phật Mẫu không hành trong ngũ luân ở Trung mạch của mình).

Giáng: Phải dựa vào “khẩu quyết như quy” mà thực hành. Trì: Phải như ao tắc khẩu (không để dâm dịch rơi rớt ra ngoài). Ban đầu phải phát lời thề không để rớt mất Minh điểm. Thượng đẳng: Lấy Bản tịnh kiến để trì, khi sinh lạc, thì trụ ở trên Bản thể Không Lạc vô phân (khi dâm lạc đạt cực khoái tình dục thì trú ở cảnh giới Lạc Không bất nhị đã nói ở phần trước để mà song vận, duy trì Kiến địa và lạc thụ Lạc Không bất nhị, không để nó tiêu mất). Khi Tán thì như phần trên (Sau khi hưởng lạc dài lâu, khi không còn muốn trụ tiếp ở Đại Lạc đó nữa thì đem lạc xúc, Minh điểm quán tưởng và dâm dịch chiết lên mà tán phát toàn thân, pháp này giống như pháp con dê lắc mình ở trên). Trung đẳng: Phải dùng khí để trì, khi sinh lạc, trung khí xuất ra, quán tưởng chữ Vạn màu đỏ giữa mi xoáy sang phải, khi lạc tán mất thì làm lại (khi lạc xúc suy yếu sắp mất, lại dùng đạo cụ để hành pháp thủ dâm). Hạ đẳng: chỉ pháp tắc lỗ, khi sinh lạc, dùng ngón trỏ và ngón giữa hai bàn tay ấn vào giữa chỗ hợp hồng bạch có xương không xương, có lông không lông (Chú thích gốc: giữa chỗ nhị âm hội hợp), quán tưởng đến Không hành trên Đỉnh, cuối cùng thì hành các quyền pháp sau:…

Quyền pháp này có thể khiến cho Minh điểm hỗn hợp hồng bạch từ kháp mạch của Kháp kháp Mẫu (Chú thích gốc: Thầy nói đó là mạch Hải Loa) thăng lên ngũ luân, lần lượt cúng dường (dựa vào thứ tự trên dưới của ngũ luân để lấy cảm giác dâm lạc cúng dường cho “Phật Phụ Phật Mẫu” trong ngũ luân cùng được hưởng thụ dâm xúc này). Đó là ngoại ngũ đại, nội ngũ Không hành, tái Mật, ngũ Minh điểm, tái tái Mật, thắng nghĩa ngũ quang minh…trong dẫn đạo Không hành Kim Cương, tất cả những khẩu quyết thụ trì đều ở đây cả”. (34-570~572).

Trên đây là pháp mà thượng sư Liên Hoa Sinh nói trong “Mật tục”, khi bản thân nữ hành giả Mật tông dùng cách thủ dâm mà không đạt được lạc thụ, phải bổ trợ bằng đạo cụ “dương vật nhân tạo” để dẫn sinh ra dâm lạc Tứ hỷ, trong bốn loại cảm giác dâm lạc đó quán sát Lạc Không bất nhị, kéo dài thời gian song vận Lạc Không, khiến cho lạc thụ được kiên cố mà không thoái thất (tiêu biến). Đó chính là pháp “tự tu tức thân thành Phật” của nữ hành giả Mật tông mà không cần dựa vào nam hành giả.

Thứ tư, pháp tức thân thành Phật tu Vô thượng Yoga từ thân người khác - Hòa hợp với nam sĩ: Nghĩa là chỉ việc có nhân duyên cùng với nam hành giả hợp tu Song thân pháp:

“Thứ tư, tha thân – pháp hòa hợp với Dũng sĩ: Người đó phải là đại huệ lực mẫu đầy đủ, Minh điểm đã được kiên cố, thực sự dùng thân để bố thí, trong sát na đầu tiên từ không trung hiện thân Hợi mẫu, sau khi tâm phóng ngũ quang để lợi tha, quang quay lại thân mình, trên Minh không Bản tôn tu đẳng trì (trong cảnh giới quán tưởng Bản tôn nhất niệm bất sinh mà tu nhất tâm an trú). Sau đó, phát tâm vân vân, như thường (những việc sau này như phát tâm, hành dâm dẫn sinh lạc xúc, cúng dường Phật Phụ Phật Mẫu, chiết Minh điểm, tán lan khắp toàn thân…đều giống như pháp tu thường ngày). Người nam tính tướng, chỗ khác nên biết (đối với những việc như người nam bị chiết Minh điểm…, chi tiết giống như đã nói ở chỗ khác, đều phải nên biết rõ). Người được dùng đến trong pháp này, bậc thượng đẳng là thượng sư mà khí, mạch, Minh điểm đều đã chứng đắc tự tại, như Đỉnh Nghiêm tôn kính, giữ giới như Hộ Phật Mục, lấy thân làm thị giả để cúng thượng sư, khiến cho thượng sư hoan hỷ, trừ hai chướng Ngã, viên mãn nhị tư lương, nhanh chóng thành tựu Mật khí. Phàm những gì thầy ấy nói, như giáo phụng hành, sẽ được thầy gia trì. Mạch của mình tuy còn yếu kém, có thể thành thắng chủng (giống tốt), tức thân thành tựu Phật vị Phổ Hiền Vương Như Lai. Trong ba loại cúng dường, lấy thân cúng dường là thù thắng nhất (lấy sắc thân của mình để cúng dường thượng sư, khiến cho thượng sư dẫn sinh dâm lạc từ thân thể mình mà được thỏa mãn, làm cho thượng sư hoan hỷ, đó là sự cúng dường tối thượng đẳng). Trung đẳng thì như bạn bè mình.

Người đó tất phải thuần thục khí, mạch, Minh điểm (Thượng sư đó bắt buộc phải là bậc đã lão luyện trong tu hành khí, mạch, Minh điểm. Phải sinh khởi tịnh quán ở chỗ người đó (Chú thích gốc: tức quán người đó là “Kim Cương” đầu ngựa) bằng lòng tin cung kính, như hành vi của thị giả. Dùng tâm tương ái, bất tương ly, nhiếp trì bằng tâm từ bi chuyên nhất. Người đó tất có đủ chủng tính Phật pháp, phải tìm kiếm người ấy như pháp.

Tối hạ đẳng: (tìm một nam thanh niên) thật thà đáng tin cậy, phải đưa cho người đó quần áo, thức ăn khiến tâm sinh hoan hỷ, chuyên nhất tương ái, sau đó quán đỉnh cho anh ta, khiến cho anh ta vào tu pháp Đại thừa, rồi dạy tu khí mạch. (Quán tưởng) mình trở thành Hợi mẫu, bôi dầu lên tịnh thân của Dũng sĩ (sau đó bôi dầu lên thân thể của nam hành giả), quán sát sự trang nghiêm và chùy của người ấy và hoa sen của mình (quán tưởng nam hành giả có đầy đủ trang nghiêm 32 tướng, rồi sau đó thực hành quán tưởng trang nghiêm đối với hạ thể của người ấy hạ thể của mình). Tham hành (thực hiện các động tác dâm hành với người nam đó), vô định mà hành (không nhất định phải dùng pháp nào để sinh dâm lạc, chỉ cần có thể dẫn sinh dâm lạc, thì pháp nào cũng được). Khi tham tướng đã sinh khởi (khi cái tâm tướng tham cầu cực khoái tình dục được sinh khởi), thì gia trì liên chùy mà hành (dùng pháp gia trì quán tưởng như đã nói ở trên để hành dâm lạc, ở đây không nói lại). Lạc khởi (khi đạt đến cực khoái tình dục), thì quán sát thượng sư Không hành Kim Cương ở trên Đỉnh. Chỗ Mật xứ hai người (giữa hạ thể Không hành phụ mẫu của hai bên) giáng (hạ) cam lộ hồng bạch (vào trong thân thể mình). Tâm (mình) trụ vào đó (trong Đại Lạc) để tu Định (khiến cho Tâm giác tri nhất tâm song vận Lạc thụ và Không mà không tán loạn). Khi Phụ lực yếu mà lạc thắng (khi năng lực tình dục của người nam không còn đủ mạnh mà lạc thụ mãnh liệt nhất, tịnh phần bạch Bồ Đề đã xuất hiện), thì phải chiết lên bằng lục gia hành (dùng sáu loại pháp gia hành để chiết xuất bạch Bồ Đề từ trong hạ thể người nam sang cơ thể mình), tưởng lạc sung mãn Đầu luân, chuyển đầu lắc thân rùng mình như trên. Hầu luân khai thì nhiếp trì ẩm thực, Tâm luân thì an trú ở Bản tịnh, Tề luân thì sinh noãn lạc. Nếu nữ (hành giả) bản thân là người (quá) trẻ tuổi, thì khi (Minh điểm giáng đến) Tề luân, phải thượng chiết bằng “(âm) Hồng dài, ngắn” là chính (để tránh hồng Bồ Đề chảy mất). Nếu (Bảo Bình) khí của (bên) nữ (có thể kiểm soát được) tự tại, (thì có thể đem) Minh điểm giáng xuống Mật xứ mà chuyển động (để mà hưởng thụ dâm lạc mạnh hơn mà không dẫn đến bị rớt mất hồng Bồ Đề). Có thể thiện xảo áp dụng các loại pháp nội ngoại, khí trì hướng ra ngoài, rung lắc thân, cúng dường trước Không hành tôn các loại (trong) lỗ chân lông (quán tưởng bằng dâm lạc), (thì) hai người (lại vì Đại Lạc mà tiếp tục) giáng hồng bạch (trút hồng bạch Bồ Đề vào trong thân nữ hành giả) sung mãn toàn thân. (Lúc này, nữ hành giả nên) vặn thân sang trái phải, để cho Minh điểm được kiên cố.

(Người có thể đạt đến cảnh giới này), thì Ngoài: thiên, nhân, quỷ; Trong: Không hành, Dũng sĩ; Mật: Không Lạc giác thụ, đều có thể nhiếp trì (từ nay về sau, đối với tất cả thiên nhân, người, quỷ bên ngoài, và Không hành, Dũng sĩ quán tưởng thành tựu bên trong, đều có thể tùy ý cùng họ tu Song thân pháp mà không dẫn đến tình trạng xấu nào). Sau đó, gót (sau khi đạt cảnh giới này, di gót chân) đưa sát vào hai đùi và Mật xứ, hai chân dùng lực ấn mạnh xuống, hai tay duỗi ra từ trên Đỉnh Dũng sĩ (hai tay duỗi ra từ đầu nam hành giả), khí ngoại trì, vận sức chiết (hấp thụ lấy Minh điểm của nam hành giả để chiết mạnh lên trên). Hai tay ấn vào hai lòng bàn chân, khí ngoại trì, hai chân dùng sức đè xuống, hai tay dùng sức kéo ngược lên. Sau đó, quỳ xuống đất kết ấn Độc cổ chử, từ Mật xứ chiết lên tay (từ hạ thể chiết lên đến hai tay nhấc cao). Cất tay lên khoảng trống bên trên phía trước, quán cúng thượng sư Không hành các luân từ Mật đến Đỉnh (quán tưởng dùng dâm lạc này để cúng dường các Không hành phụ mẫu trong ngũ luân ở Trung mạch từ Mật xứ (bộ phận sinh dục) của mình đến các thượng sư trên Đỉnh đầu, quán họ đều nhận sự cúng dường cảm thụ dâm lạc này). Rùng lắc thân mình như con dê, trì Bình khí, an trú trên Bản tịnh.

Đó gọi là “Trì đề tán” hợp nhất. Người đạt được công đức thắng diệu như vậy, thì sẽ đắc thành tựu cộng bất cộng: không già, xinh đẹp, tóc không trắng, mặt không có vết nhăn, biết cách khơi trong, giác thụ tăng trưởng, trường thọ, thân mềm mại, ít bệnh, mở các kết (nút thắt) thân mạch, sinh địa đạo công đức, tịnh phần Minh điểm an trú, ngăn ngừa được nhị thủ phân biệt, trí tuệ tăng trưởng; Giác thụ (cảm nhận) Minh điểm trong thân được sinh khởi, nhìn thấy Phật sát thập phương, các loại công đức không thể nghĩ bàn. Những chuyện như Tùy phiền não tăng trưởng, đời này nhiều bệnh, tổn hại phạm giới, thượng sư Không hành không vui, mạch và Minh điểm bị phá hoại, Dũng sĩ Bản tôn mãi mãi không gặp mặt, niệm chú vô lực, dễ già mau chết...ngược lại với những điều trước, đời này đời sau gặp chuyện không cát tường. Những công đức và họa hoạn đó đều phải biết rõ, tuy gặp như mệnh nan, cũng nên phòng hộ Minh điểm, như Liên sư đã nói. Di Hỷ Thác Gia viết”. (34-572~574)

Không Hành Mẫu của Liên Hoa Sinh, Di Hỷ Thác Gia nói rằng nữ hành giả Mật tông tu hành được như thế thì có thể “không già, xinh đẹp,…cho đến có thể ‘sinh địa đạo công đức’”, ý nói có thể dựa vào pháp này sinh khởi công đức từ Sơ địa cho đến các quả Địa cao hơn – chứng đắc quả vị chư Địa. Thế nhưng pháp này thuần túy là pháp môn tu hành của ngoại đạo, hoàn toàn không liên quan gì đến Bát Nhã của Phật pháp, không thể chứng đắc Thức thứ tám Như Lai Tạng; Nếu đã không thể chứng đắc Như Lai Tạng, thì hoàn toàn không thể biết và hiểu được trí tuệ cơ bản của Bát Nhã. Đã không thể biết được trí tuệ của Bồ Tát thất trụ vị, thì sao có thể biết được trí tuệ từ Sơ địa cho đến các Địa khác? Không có cái lý ấy! Chỉ có người ngu si mới tin vào những lời như vậy!

Hành giả Mật tông sau khi tu Song thân pháp này mà sinh Đại Lạc, sẽ trụ vào trong cảnh giới dâm lạc mãnh liệt nhất để quán tưởng lấy Đại Lạc này để cúng dường “chư Phật”. Các thày Mật tông từ xưa đến nay đều cho rằng “Thường trụ Đại Lạc” của Báo thân Phật tức là thường trụ trong cực khoái tình dục dâm lạc này, tự sung sướng với nó, vì thế khi “Lạc Không song vận” thì phải quán tưởng “chư Phật” nhận được dâm xúc (cảm xúc dâm lạc) mà mình đang cảm nhận trong cơ thể, coi đó là sự cúng dường vô thượng đối với “chư Phật”.

Việc lấy dâm lạc để cúng dường “chư Phật” và thượng sư như vậy, trong “kinh điển” của Mật giáo bộ đã ghi chép từ lâu, không phải là do người đời sau biên soạn, chứng tỏ Mật tông của Thiên Trúc cũng đã có pháp này rồi: “Lại truyền dạy Ấn Trí bí mật tiếp: Tất cả thân họ đều hòa hợp, tự nhiên diệu lạc thành cúng dường, lấy đó phụng hiến nhanh thành tựu, Kim Cương tát đỏa đều không khác. Vì chân thực diệu ái tương ứng, tùy ứng theo đó lạc xúc sinh, phụng hiến cái này cho chư Phật, đắc Kim Cương bảo cũng không sai, kiên cố hỷ lạc thường nối tiếp, tùy xúc tùy ứng thắng lạc sinh, phụng hiến cái này cho chư Phật, đắc Kim Cương pháp cũng không hai, Kim Cương liên hoa chùy tương hợp, diệu lạc tương ứng lan tất cả, lấy đó phụng hiến làm cúng dường, đắc Kim Cương nghiệp tất không sai” (“Đại Chính Tạng”, sách 18, 376-hạ).

Đó là pháp tu “Ấn Trí bí mật” nói trong “Nhất thiết Như Lai chân thực nhiếp Đại thừa hiện chứng tam muội đại giáo vương kinh” quyển thứ 8, thuộc Mật giáo bộ của “Đại Chính Tạng”. Cái “trí tuệ Ấn bí mật” chính là “trí tuệ” của pháp tu song thân. “Bí mật” nghĩa là không dành cho những người chưa thụ quán đỉnh và quán đỉnh thứ tư của bên Hiển giáo, cũng không dành cho tất cả những người khác. “Ấn” là chỉ thủ ấn và thân ấn (các động tác thân và tay hành dâm trong đó) thực hiện trong quá trình nam nữ hợp tu, cho nên gọi là “Ấn”. Lại coi cái “Đại Lạc” đó là thường trú Đại Lạc của Báo thân Phật, khi chứng đắc thì có thể tự ấn chứng “chư Phật mãi nhận được Đại Lạc này”, cho nên gọi là “Ấn”.

Bốn câu đầu trong bài kệ của bộ “Kinh” đó nói rằng, toàn thân nam nữ trên dưới kết hợp chặt khít vào nhau, từ đó sinh ra các loại diệu xúc, quán tưởng đem cúng dường “chư Phật”. Cách thức phụng hiến diệu lạc cho “chư Phật” như thế thì có thể thành tựu thân phận Kim Cương tát đỏa. Bốn câu kệ sau nói rằng, khi cảm thụ Đại Lạc hành dâm, tâm sinh ra “chân thực diệu ái”, quán tưởng cái lạc này để cúng dường “chư Phật”, nhờ sự cúng dường này mà đạt được công đức “Kim Cương bảo”. Bốn câu tiếp theo nói rằng, trong trạng thái dâm hành giữ được sự kiên cố không mềm thoái, đồng thời giữ cho cơn cực khoái tình dục trụ mãi liên tục không đứt đoạn, đem cơn cực khoái tình dục lâu dài không gián đoạn này để cúng dường “chư Phật” thì có thể đạt được “Kim Cương pháp”. Bốn câu kệ cuối cùng nói rằng tương hợp “Kim Cương chùy và Kim Cương liên hoa” của hai bên nam nữ, khi diệu lạc tương ứng sinh ra và lan tỏa khắp mọi nơi toàn thân, đem cái diệu lạc tối thắng này dâng hiến cho Phật và làm cúng dường, thì sẽ thành tựu “Kim Cương nghiệp”.

Qua đó có thể thấy, “Kinh” này cho rằng việc hành dâm nam nữ của hành giả Mật tông là “trò chơi Kim Cương”. Trò chơi Kim Cương đó chính là pháp thù thắng thượng diệu trong cúng dường “chư Phật”, vì thế mới nói rằng: “Lại dạy đại Bồ Đề tâm thành biện cúng dường Ấn trí: Bồ Đề tâm kiên cố sinh ra, ta quán tưởng nơi chư Phật, ta lấy trò chơi cúng dường, sẽ được thắng diệu lạc của chư Phật”. Tri kiến về Phật pháp của các thầy Mật tông xưa nay đều vô cùng thô thiển, cho rằng diệu lạc của Báo thân Phật chính là dục lạc dâm xúc nam nữ thô nặng nhất của nhân gian, vì thế tâm tâm niệm niệm muốn đem cái lạc dâm xúc đó để cúng dường “chư Phật”. Nhờ sự cúng dường này mà tự cho rằng có thể thành tựu Kim Cương nghiệp, Kim Cương tát đỏa, Kim Cương bảo, Kim Cương pháp, Kim Cương Bồ Đề. Chính vì duyên cớ đó mà phần hạ thể của nam giới (dương vật) gọi là “Kim Cương chùy”, phần hạ thể của nữ giới (âm hộ) gọi là “Kim Cương liên hoa, Kim Cương linh”.

Lại nói về các Báo thân Phật đều ở trạng thái hai thân nam nữ ôm lấy nhau, đó là tư thế thường trực của Báo thân Phật trong Mật tông. Trong mọi thời gian, cứ ôm mãi người nữ để giao hợp và cảm nhận dâm lạc cực khoái tình dục, không từng gián đoạn, cái “dâm lạc bất đoạn” đó là quả báo của Báo thân Phật trong Mật tông. “Báo thân Phật” Mật tông đó mãi mãi không phân ly với Minh Phi (Phật Mẫu) của mình, phần hạ thể (bộ phận sinh dục) cũng giao hợp trong mọi thời mà không chia lìa. “Báo thân Phật” đó của Mật tông thường trụ trong hạ thể của nam nữ nhân gian, cảm nhận dục lạc, cho nên nam nữ hành giả Mật tông khi quán tu pháp dâm lạc này, ắt phải quán tưởng “Báo thân Phật” trong hạ thể của mình cùng cảm nhận dâm lạc cực khoái tình dục trong cơ thể mình.

Chính vì lẽ đó, Mật kinh mới nói “Ta lấy trò chơi cúng dường, sẽ được thắng diệu lạc của chư Phật”, ý nói rằng hành giả Mật tông vì cúng dường “chư Phật” bằng thứ dâm lạc này nên khiến cho mình được hưởng thụ dâm lạc khi hành dâm, đồng thời chứng đắc thứ diệu lạc thù thắng của chư Phật, nó khác với dâm lạc của người thế tục. Vì thế mà họ tự xưng hành vi Song thân pháp này là “xuất thế gian hành”. Nhờ công phu dâm hành đó, có thể khống chế tinh dịch không tiết lậu, vì thế họ mới nói pháp tu song thân là “pháp vô lậu”. Vì dâm dịch không tiết lậu mà được hưởng thụ Đại Lạc của cực khoái tình dục, nên gọi là “thành Phật”.

Những lời tà kiến thô thiển đó lại được ghi chép vào trong kinh điển Mật tông. Những người Nhật Bản biên tập “Đại Chính Tạng” không có đủ trí tuệ, lại đem Mật kinh đầy tà tri, tà kiến, tà tu pháp của phái Tính Lực ngoại đạo biên chép vào hệ thống Đại Tạng Kinh của Phật giáo, gây nhầm lẫn cho người thời đó và người hậu thế đời nay. Nếu như không tăng cường kiểm duyệt, lựa chọn, người học vô số đời sau sẽ vẫn ăn phải chất độc, di độc vô lượng kiếp, cho đến khi Pháp diệt mới dừng. Chính vì lẽ đó mà nay cần phải phân tích chi tiết, để những người học, bất luận là học vấn nông sâu cũng đều có thể đọc xong là biết ý nghĩa nội dung của nó, để người tu học Phật không ai không biết, như thế mới đạt thành công. Cho nên, không được nhìn nhận cuốn sách này như là một cuốn “dạy dâm”.

Nên biết rằng, nếu như tri kiến và hành môn bí mật này của Mật tông được công khai thì đại chúng đều sẽ được biết rõ, họ sẽ có năng lực để phân biệt cái tà và chính của Mật tông, từ nay về sau có thể vĩnh viễn không còn bị mê lầm vào nó, khiến cho chính pháp của Phật giáo và tà kiến tà hành của Mật tông được chia làm hai dòng trong và đục rõ ràng: Sau này, ai hoằng pháp của người đó, hai thứ không có liên quan gì. Phật giáo từ đây sẽ mãi mãi lìa khỏi sự trói buộc bởi tà kiến Mật tông, từ nay được thanh tịnh mà không bị nó làm ô nhiễm. Đó chính là công việc cấp bách trước mắt của Phật giáo vậy.

Từ những chứng cứ nêu ra trên đây, có thể thấy tri kiến của Mật tông thô thiển vô cùng tận. Pháp môn tu hành tà dâm thô thiển không thể tà hơn được nữa như thế, vậy mà tại sao các thày Mật tông lại tự xưng trí tuệ của họ còn cao siêu hơn cả các thày Hiển giáo? Ví như những dã nhân của bộ lạc nguyên thủy từ nhỏ chưa từng được giáo dục, từ nhỏ thâm cư ở trong cánh rừng nguyên thủy, chưa từng bước ra khỏi bìa rừng, không từng nghe nhiều nhìn rộng, mà lại dám nói các giáo sư đại học có trình độ kiến thức thô thiển, trí tuệ IQ không cao rộng như họ. Sự thô thiển vô tri của các thày Mật tông xưa nay cũng y hệt như thế, hoàn toàn không từng hiểu biết gì về đạo Giải thoát Nhị thừa, càng không hiểu biết gì về Bát Nhã Đại thừa, nhưng lại cuồng ngôn nói Phật của Hiển giáo chỉ là Hóa thân Phật thô thiển, đồng thời lớn tiếng rêu rao rằng các Phật giả như “Tỳ Lô Giá Na Phật” do tự tông sáng lập là Cứu cánh Phật có tu chứng tối cao. Nếu xét về thực chất, “Phật” mà bọn họ nói không phải là “Tỳ Lô Giá Na Phật” trong “Kinh Hoa Nghiêm”, mà là mạo xưng danh nghĩa của “Tỳ Lô Giá Na Phật” trong “Kinh Hoa Nghiêm” để thuyết pháp ngoại đạo, chỉ là quỷ thần để mê hoặc hành giả mà thôi.

Các thày Mật tông kim cổ do không không biết nội hàm trong Mật kinh, bị những lời tuyên thuyết đó mê hoặc. Nay đại chúng đã biết nội tình, không còn nghi hoặc nữa. Từ nay về sau, những thứ “ngoài dùng lời huyễn ảo, trong bí mật tu hành” của các thày Mật tông đã không còn ma lực để mê hoặc tất cả các hành giả Phật môn nữa. Phật giáo nay thanh tịnh, chính pháp nay hoằng truyền, có thể dần quay về với con đường bằng phẳng rồi.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31512


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg