The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 7: Lấy âm bổ dương – chiết xuất Minh điểm từ thân người khác giới -2

 Thế nhưng, sự tham dục đó, cho đến sự tham trước thô nặng nhất trong Dục giới còn không thể chứng được công đức giải thoát Dục giới, huống hồ là có thể chứng được công đức giải thoát Sắc giới? Còn chưa thể chứng được công đức giải thoát Sắc giới thì sao có thể chứng được công đức giải thoát Vô Sắc giới? Còn chưa thể chứng được công đức giải thoát Vô Sắc giới, thì sao có thể chứng được công đức giải thoát khỏi sự trói buộc của Tam giới? Còn chưa chứng được công đức giải thoát khỏi sự trói buộc của Tam giới trong pháp Nhị thừa, thì sao có thể chứng được công đức trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát mà A La Hán còn không thể chứng biết? Còn chưa thể chứng được trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát thì sao có thể chứng được trí tuệ Phật địa? Chỉ là phàm phu thuần chất như thế, mà lại cuồng ngôn nói mình có thể thành “Báo thân Phật”, đã thành “Báo thân Phật”, liệu có cái lý ấy ư?

Liên Hoa Sinh nói rằng người thành Phật như thế có thể tùy loại thuyết pháp, sao không một lần nữa thị hiện Hóa thân mà ra mặt bác bỏ những lời biện luận của Bình Thực tôi? Các thầy Mật tông thường xướng ngôn rằng có thể tức thân, tức sinh thành Cứu cánh Phật, lẽ ra phải có nhiều người tức thân tu thành Báo thân Phật quả, sao không thấy có người nào dám ra mặt bác bỏ những lý lẽ mà Bình Thực tôi nói? Lẽ nào Mật tông quả thật không có người nào tức thân tu thành cảnh giới “Báo thân Phật”? Cho đến nay vẫn không thấy có ai dám đến bác bỏ pháp của Bình Thực, mà vẫn tiếp tục để mặc cho Bình Thực tôi bác bỏ “Đại pháp căn bản – Song thân pháp” của Mật tông.

Nếu quả thực đã không có ai tức thân tu thành cảnh giới “Báo thân Phật”, nghĩa là thuyết “tức thân thành Phật” hiển nhiên là hư vọng; Nếu có người đã tức thân tu thành cảnh giới trí tuệ của “Báo thân Phật”, thì lẽ ra họ phải sinh lòng bất nhẫn, xuất thế mà bác bỏ quan điểm của Bình Thực để cứu Mật tông khỏi sự nguy vong trước mắt chứ. Nếu quả thực có thể tức thân thành Phật, thì Phật tu thành cũng có Báo thân Phật, “càng siêu việt hơn cả Hóa thân Phật Thích Ca”, thì lẽ ra phải có đủ năng lực tùy ý mà bác bỏ những ngôn thuyết của Bình Thực này, bởi vì thượng địa tất phải biết rõ pháp hạ địa, thượng địa tất có thể chỉ đạo hạ địa mà.

Giả sử trong thời thế hiện nay, các thầy Mật tông chưa có người thành “Báo thân Phật”, thì cũng phải có người đã thành tựu “Hóa thân Phật” rồi chứ. Hóa thân Phật thì cũng có thể chỉ đạo Bình Thực tôi mà, tại sao chẳng có ai dám đứng ra dùng tên thật để bài bác Bình Thực này? Tại sao không có lấy một người thu phục Bình Thực làm đệ tử, để tôi vào Mật tông tu học cái pháp có thể thành “Báo thân Phật”?

Các thày Mật tông không nên nói như ông Giang Xán Đằng: “Không thèm lý luận với cư sĩ Bình Thực”. Vì sao vậy? Đó là vì các thày Mật tông nhìn thấy Bình Thực phá hoại đạo Mật tông nặng nề như vậy, nếu không dám phản bác, phá hủy lại, thì Mật tông trong tương lai 50 năm sau chắc chắn sẽ dần dần suy yếu và diệt vong, hành vi và hậu quả nghiêm trọng như thế mà tại sao các thày Mật tông lại thờ ơ nói những lời bàng quan vậy? Không đúng lý chút nào!

Nếu như các thày Mật tông đều không thể dùng chính danh để ra mặt phản bác lại Bình Thực này, thì chứng tỏ họ đều khiếp nhược và không có đủ trí tuệ Bát Nhã vậy. Như thế thì sao có thể nói rằng đã tu thành Phật đạo ở quả địa? Các thày Mật tông đó nhìn thấy Bình Thực phá hủy Mật tông một cách cụ thể, có hệ thống, có kế hoạch, thế mà lại không hay không biết tính nghiêm trọng của nó, lại không thể biết rằng hành vi như thế sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt của Mật tông trong tương lai, cho nên chứng tỏ các thày Mật tông đó hiển nhiên đều không phải là những người có trí tuệ, vì không thể nhìn thấy hậu quả nghiêm trọng của vấn đề. Các thày Mật tông và tất cả những người học trong Phật môn đều nên suy nghĩ cho kỹ những lời này của Bình Thực tôi, sao không cùng tư duy về chuyện này?

Cho nên, Liên Hoa Sinh nói: tu Song thân pháp này có thể “thành tựu Báo thân Phật” thường trụ trong Đại Lạc cực khoái tình dục dâm xúc, có thể thành tựu “Lời nói có thể tùy loại mà thuyết pháp”, quả thực đều là những lời vọng ngữ, đúng là những tà kiến vọng tưởng dựa trên tư duy tùy tiện của mình, tuyệt đối không phải là Phật pháp thực sự. Vì nó hoàn toàn trái ngược với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề, hoàn toàn không thể chứng được Thức thứ tám Chân Như, cũng không thể chứng được trí tuệ Bát Nhã.

Vì thế mà tại đây, Bình Thực lớn tiếng kêu gọi: Người học Mật tông cần sớm thâm nhập nghiên cứu kỹ lưỡng chính – tà trong pháp nghĩa của Mật tông, cần tham cứu chính tà trong pháp nghĩa Mật tông bằng tâm thái lý trí bình tĩnh. Sau khi thâm nhập nghiên cứu kỹ lưỡng bằng lý trí bình tĩnh, thì mới có thể hiểu biết được bản chất của Mật tông, mới có thể thực sự biết nên đi đâu, theo ai, để mà có sự lựa chọn chính xác. Đây là việc khẩn cấp trước mắt của tất cả những người tu học Mật tông, nhất định chớ có khinh suất, lơ là cẩu thả, nhất thiết đừng nên tiếp tục thâm nhập vào trong tà đạo, tà pháp, tà kiến của Mật tông, dẫn đến thành tựu đại vọng ngữ và đại ác nghiệp phá hoại chính pháp, di hại cho bản thân mình.

Nam hành giả của Mật tông có thể chiết xuất lấy Minh điểm từ nữ hành giả để mà “nhanh chóng thành Phật”, ngược lại, Minh Phi cũng có thể chiết xuất lấy Minh điểm từ thân Dũng Phụ để tự đắc lợi ích: “Lại nói về Phật Mẫu chiết từ Phật Phụ: Từ đỉnh Hợi mẫu, Hợi đầu màu đỏ, chuyên chú vào đây. (Ở tư thế ngồi ôm nhau) dùng gót chân trái phải khép sát vào mông Phật Phụ, hai tay giao thoa bám vào ngón chân cái của mình, niệm Hồng (hum) dài, (khiến cho nam hành giả xuất tinh, sau đó chiết lấy) Minh điểm người nam như thủy ngân rót lên trên rốn, không ngừng hòa hợp với chữ X đỏ (chữ Phạm, tạm lược) ở rốn; Lục chi ví dụ như chuyển trên mắt tương tự như phần trên đã nói. Thực hành bảy hoặc mười lần, tịnh phần của nam nhất định sẽ chiết xuất được (tịnh phần tinh dịch của người nam chắc chắn sẽ chiết vào bên trong cơ thể mình). Khi dục lạc của nam tăng lên thì không được thả lỏng, cần thừa thế ra sức động cựa (để người nam phóng tinh), đó là yếu quyết. Sau đó cần thực hành quyền pháp như tán giãn ra, dùng sức mà làm” (34-562-5). Phần chú dẫn trên đây đều là khẩu quyết của Liên Hoa Sinh.

Trong “Kim Cương dẫn thủy giáo thụ” của Liên Hoa Sinh cũng nói có thể chiết xuất Minh điểm từ trong cơ thể Minh Phi, chứ không phải chỉ có một chỗ trong Mật tục nói về vấn đề này:

“Người có đủ chủng tính, muốn dựa vào vào Sự nghiệp thủ ấn (người muốn dựa vào Minh Phi để tu Song thân pháp), cần hấp thụ tịnh phần từ người cụ tướng thủ ấn (Minh Phi có đầy đủ tướng tốt) nói trong pháp dẫn đạo thâm sâu của Mật thừa. Sau khi tự tập tự lực, đắc Giới phần ổn định (tức sau khi tự mình luyện tập trước đến mức trụ lâu trong cơn cực khoái tình dục mà không xuất tinh dịch, công phu được vững chắc rồi) thì mới có thể hành pháp. Thủ ấn này, buộc phải là (người nữ) tướng mạo đoan nghiêm vừa ý, liên hoa ấm (bộ phận sinh dục nồng ấm), chủng phong phú (dâm dịch đầy đủ), tuổi từ 13 đến 25, không có tính đố kỵ, keo kiệt, không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Sau khi chủng này phương tiện nhiếp thụ tự tại, lúc câu sinh (khi người nữ đạt đến cực khoái tình dục), cần phải hôn môi, ôm eo, mút lưỡi, hết sức dùng các loại phương tiện (biện pháp) để khiến cho (Minh Phi) sinh tham tâm (sinh khởi tâm tham ham muốn cực khoái tình dục), phát sinh an lạc (khiến Minh Phi đạt cảm giác cực khoái tình dục). Khi thấy mặt người nữ mặt đỏ ửng, hơi thở gấp gáp rên rỉ, chân tay run rẩy, thì hành giả tự quan sát mã đầu Bản tôn, ấn quán Hợi mẫu (có trong hạ thể), như sinh khởi thứ đệ mà tu gia trì hai Mật xứ (của hai người). Phương tiện tìm mạch thì như đã thuật ở trên. Khi nhị căn của mình và đối phương (nam nữ căn của mình và Minh Phi) tương hợp, sinh lạc như con rùa từ từ bò, cảm nhận sự sung sướng, đại lạc e sẽ mất Bồ Đề (khi sung sướng quá thì e sẽ rớt lậu tinh dịch, cần phải tự biết lượng chịu đựng của bản thân, để tránh rơi rớt). Quán sát đỉnh ma ni chùy (quán tưởng đỉnh chót của quy đầu) có Hồng (hum) màu xanh đen, đầu hướng vào trong, móc hướng ra ngoài, tâm định ở trên Bản lai thanh tịnh, lìa tất cả biên tế hí luận (không sinh khởi ngôn ngữ, vọng tưởng…), men theo chữ Hồng màu xanh đen này (mà nhất niệm bất sinh, trụ ở trong “định” này). Người mới tu nghiệp (mới bắt đầu tu pháp Sự nghiệp thủ ấn này), buộc phải nương dựa vào quán tưởng, như rùa, có cọc vậy. Nhưng đại hành giả thì có thể định trong “an lạc vô phân minh thể”, tự có thể khiến cho định tăng trưởng (có thể trụ lâu trong cảnh giới Đại Lạc này mà nhất niệm bất sinh, khiến cho “định cảnh” ngày càng tăng trưởng). Sau đó thì trì nghịch đề pháp (chiết/nâng ngược), như chiết trong Sự nghiệp người khác đã rõ ở trên. Chiết lấy cái tinh hoa của đối phương, phải biết mạch đầu tịnh phần trong Thủ ấn liên hoa (hạ thể của Minh Phi): Tiếp xúc tay như hình dạng hai đầu. Thứ đến là tưởng Kim Cương đỉnh (Đỉnh luân), trải qua Ngũ luân (Ngũ luân trong Trung mạch) để trực tiếp chiết lấy. Trung mạch trên đạt Phạm huyệt, dưới đạt đến Liên hoa, tưởng Liên hoa (lại quán tưởng trong hạ thể của Minh Phi) không có trọc phần (phần đục, đối lập với tịnh phần) như kinh huyết, nước vàng… Thủ ấn (Minh Phi) phải đầy đủ tất cả các tướng, dùng chữ Hồng dài để hút chiết vào Trung mạch, tưởng Hồng lại sinh Hồng, như tràng hạt nối liền bằng dây tơ. Lúc này, đầu nên lay động trái phải, không ngừng niệm Hồng dài, Hồng ngắn, phải lấy Hải xung Tu Di (dùng Bảo bình khí đem hồng, bạch Bồ Đề xối vào đỉnh chót của Trung mạch), chuyển đảo mắt, lưỡi đẩy lên ngạc, thân co rút đẩy ra lưng, chiết thẳng lên trên.

Lại nữa, thân úp lên trên Thủ ấn (thân thể nằm trên mình Minh Phi, hai căn tương hợp), hai chân duỗi dài; Ngón tay trỏ chạm đất, dùng hai ngón tay cái ấn chặt vào đầu cong của ba ngón giữa, vô danh và ngón út, hai tay duỗi dài sát đất, mông chỗ xương cụt hơi hướng ra ngoài, các phần thân thể khác của hành giả không được chạm đất. Miệng niệm âm Hồng (hum) dài, quán tưởng đến tịnh phần hồng giới (tịnh phần của chủng tử hồng Bồ Đề) của Thủ ấn (Minh Phi) như vẻ hồng nhuận của hoa Tử Nhung, hóa tịnh phần (quán tưởng dâm dịch của Minh Phi hóa khí), dùng Hồng (hum) hút vào Trung mạch, lần lượt nhập vào tứ luân (từ Hải Để luân thăng lên, lần lượt đi qua bốn luân khác của Trung mạch cho đến Đỉnh luân), thu ở Đỉnh Hàng, vô phân biệt trụ (vào trạng thái nhất niệm bất sinh và trụ ở trong dâm lạc, trụ trong cảnh giới lĩnh hội Không Lạc bất nhị mà lại song vận Không Lạc); Đổi lưng bụng tương hợp, hạ khí kéo mạnh lên, ngạc đè vào hầu hết, trên mắt nhìn nhau, tương đồng với ta.

Nếu ở các luân dùng khí công tiếp theo, thì hút Bồ Đề chắc chắn có thể nâng lên được. Sau khi hút nâng, thì phải phân bố khắp toàn thân, như cách cong dê rùng mình, đồng thời buông tay nhảy ba lần…Nếu muốn phân tách tịnh phần và trọc phần, cần thực hành nhiều lần A Lỗ sự nghiệp (Chú thích gốc: Thân sư nói: tức phóng thu hậu môn, tự có thể bài tiết trọc phần, thu giữ tịnh phần). Sau đó cần thực hiện quyền pháp Sư tử hí cầu, điều khiển Nhất thiết chướng, tâm định ở trên Bản tịnh tịnh kiến (Tâm giác tri định trú ở trên thanh tịnh kiến vốn dĩ thanh tịnh vô nhiễm của cảm thụ dâm lạc), thượng khí theo tự nhiên vào ra. Nếu sinh chấp trước ở Cụ tướng quan, thì sẽ sinh ra sai lầm ngưng kết ở Minh điểm đang duyên vào.

Trước khi hành pháp này, cần chuẩn bị đầy đủ đậu khấu, đinh hương, hồng hoa, bột sữa mịn, và pho mát (phô mai) đặt cạnh chỗ tọa, dùng thứ thuốc này bôi lên trên mạch đối phương (bôi lên mạch Hải Loa của Minh Phi). Hành giả phải tập trước các yếu quyết: Học đủ khẩu quyết lục pháp, tụng chữ Hồng (hum) dài ngắn, thân thể không được để ánh sáng mặt trời chiếu vào. Sau khi tu tập một tháng, tự nhiên sẽ hấp thụ được. Trong này có yếu quyết quan trọng: Biết chùy mình đã nhập vào trong lỗ (đã xác định chắc chắc chùy Kim Cương của mình đã đút vào trong lỗ mạch Hải Loa của Minh Phi), thì khí có thể chiết xuất, cuối cùng sẽ thành Mã âm tạng tướng (như thế có thể thành tựu tướng Mã âm tạng trong 32 tướng); Minh điểm đã rơi vào trong hoa sen, thì có thể quay trở về (nếu là người có công phu thượng chiết, thì cho dù không nhịn nổi trong cơn cực khoái mà tinh dịch xuất vào trong hạ thể của Minh Phi, cũng có thể dùng công phu này để hút chiết lại vào trong cơ thể mình). Người mà tịnh phần của mình được kiên cố, có đầy đủ tính tướng ấn, cũng có thể chiết vào.

Ấn thân phải vô bệnh (Minh Phi được sử dụng phải là người không có bệnh tật), tinh hoa không ô nhiễm (dâm dịch của Minh Phi cũng không được ô nhiễm – không được mắc bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục).

Cách chiết có ba phương pháp: Thượng chiết, những người hành khí kiên cố có thể thực hiện được. Trung chiết, tự sinh Bản tôn, lĩnh nạp vật Tam muội da: Khi Mẫu giáng hạ tịnh phần (khi Minh Phi tiết ra nhiều dâm dịch), trong miệng ngậm cam lộ A Mễ Đả (miệng ngậm rượu), lấy ống trúc hấp thủ (dùng ống trúc để hút lấy dâm dịch mà Minh Phi tiết ra vào trong miệng), tương hợp với cam lộ (dâm dịch và rượu trong miệng hòa vào nhau), dùng lưỡi tự khuấy động (để cho dâm dịch và rượu hòa lẫn vào nhau, và cảm nhận vị của nó), cúng dường tự giới Bản tôn (quán tưởng dùng vị này để cúng dường Bản tôn Phật Phụ Phật Mẫu ở trong hạ thể, sau đó nuốt uống để bổ dưỡng thân thể). Qua đó để viên mãn tư lương, lĩnh nạp vật Tam muội da bí mật, trò chơi thù thắng có thể khiến được trường thọ (dùng phương pháp tu hành này để cúng dường “Phật”, sau đó nuốt uống cam lộ Tam muội da bí mật vô cùng thù thắng này, cho nên khiến cho tư lương thành Phật được viên mãn; Trò chơi Kim Cương thù thắng này có thể khiến cho sắc thân được trường thọ), sau cùng rùng mình lắc thân.

Hạ chiết, khi thân giới tăng quảng (khi dâm dịch chủng tử tiết nhiều), Mẫu giáng điểm (Minh Phi tiết xuất ra dâm dịch), (dưới) eo của Mẫu đệm gối, dưới hoa sen dùng khay áp sát vào (dưới phần hạ thể của Minh Phi gắn khay sát vào để tiếp nhận dâm dịch), không được để ánh sáng mặt trời chiếu vào, dùng lỗ mũi phải nối ống trúc để hút vào, hai tay ép hai lỗ mũi, khiến cho khi chuyển từ ống trúc đến lỗ mũi phải, chắc chắn có thể chiết được tịnh phần. Xong việc thì lắc thân rùng mình.

Vấn đề quán tưởng chiết tịnh phần, trên nhật nguyệt hư không liên trước mặt, thượng sư vô lượng thọ Phật Phụ Mẫu song vận (Vô lượng thọ Phật do quán tưởng thành ôm Minh Phi hưởng thụ dâm lạc), giáng hạ hồng bạch cam lộ (xuất ra dâm dịch của hai “Phật” nam nữ), sung mãn tận đỉnh đầu và lỗ mũi mình, rồi nhập vào tất cả mạch trong cơ thể. Minh điểm của Phật Mẫu có thể chiết được rồi, tướng của nó như đã nói ở trên. Cái Tam muội da trong này là: lìa năng sở thủ chấp trước.

Khẩu quyết hạ chiết là: dùng các loại phương tiên để sinh Đại Lạc: cua, sâu đen, xxx (tên vật tiếng Tạng, ý nghĩa không rõ), mào gà phần dưới để ăn (cho Minh Phi ăn), có thể khai mạch khẩu (có thể đả khai mạch khẩu Hải Loa dưới hạ thể của Minh Phi). Phần dưới eo thì dùng dầu bôi lên.

Quán tưởng khởi phần: Đại chùy nhập liên, thâm nhập vào trong, cần tự biết lấy mức độ lạc của mình. Cũng cần phải nắm bắt lấy tướng sinh khởi lạc của Mẫu (Phật Mẫu – Minh Phi), tức dùng tay ôm chặt eo người nữ, thân mình đoan chính, tả mạch người nữ mở, giáng hạ hồng Bồ Đề. Chùy của mình như cái ống, chiết lấy tịnh phần từ đây, còn trọc phần để lại (trọc phần là dâm dịch vật chất, để lại không chiết, chỉ chiết lấy khí phần của nó). Tịnh phần từ Trung mạch nhập vào (Đỉnh) Hàng, giữa 16 Minh điểm, im hơi lặng tiếng mà chiết. Ngón chân cái hai bên móc vào trong, ngón tay trỏ và giữa của hai bàn tay đan vào nhau trái phải sau lưng (Chú thích gốc: Phần này khác với phần trước, trước là nằm để chiết, còn ở đây là chiết ngồi). Ngoại trừ ngón chân cái, các phần khác của cơ thể không được chạm đất, trong khi chiết hạ khí lục gia hành, duy chỉ có Tứ châu là không co lại (Chú thích gốc: tức là không co rụt chân tay), còn lại thì đều giống nhau.

Nữ (nếu) vô niệm hôn mê, co rút lại như quả cầu nhung, không nhịn nổi, bật ra ác thanh, đó gọi là tướng bị chiết. Sau đó phân ly, an trú Bản tịnh, lắc thân hành pháp Sư tử hí cầu, ngũ luân… Nữ biểu hiện ra tướng suy yếu, mệt mỏi, nên dùng thực phẩm để bồi bổ, nếu không sẽ dễ suy lão (lão hóa).

Còn về trừ trướng… ở đây nếu chưa nói rõ thì chỗ khác sẽ nói chi tiết, hiếm lắm! Không Hành Tâm Huyết pháp kỳ dị lắm! Hợi mẫu lục giáo thụ (sáu điều dạy), ta vì tham ái Di Hỷ Thác Gia mà nói (Ta vì tham ái Di Hỷ Thác Gia mà nói ra pháp này). Ngọn núi nổi tiếng của đất Tạng, nguyện sau này người có đầy đủ chủng tính sẽ sớm gặp nó” (34-564).

Đó là những lời trong khẩu quyết “Kim Cương dẫn thủy giáo thụ” mà thượng sư Liên Hoa Sinh truyền thụ cho “Không Hành Mẫu” Di Hỷ Thác Gia. Mục đích của pháp này là nhằm dẫn dắt (kích dẫn) Minh Phi tiết ra thật nhiều dâm thủy, sau đó chiết lấy để bản thân có thể dựa nhờ vào đó mà tu thành “Phật đạo”. Đây cũng là khẩu quyết trong pháp môn tức thân thành Phật, song thân tu pháp của Mật tông, cũng là yếu quyết mà nam hành giả học Mật cuối cùng cũng phải được biết.

Pháp môn hợp tu song thân Mật tông đại đa số lấy nam hành giả làm trung tâm để tuyên thuyết, gọi là Phụ tục. Còn nếu đứng ở góc độ nữ hành giả mà nói thì gọi là Mẫu tục. Như vậy, Mẫu tục nói trên góc độ của nữ hành giả là khá ít, rõ ràng không phải là pháp hoàn toàn bình đẳng. Nhưng trong Hiển giáo thì không phải như vậy, tất cả các pháp môn mà nam nữ cần phải tu học đều không có sai biệt, đều lấy Thức thứ tám làm chủ thể tu chứng, cùng lấy nhãn kiến Phật tính, cùng tu chứng Nhất thiết chủng trí làm chủ thể, pháp môn tu hành bình đẳng không hai, không hề có khác biệt, đó là vì Chân Như Phật tính của mỗi người đều không hai, không có sự khác biệt về mặt lĩnh thụ. Đó là sự khác biệt giữa pháp Hiển giáo và Mật giáo.

Pháp tức thân thành Phật vô thượng Yoga mà nữ hành giả Mật tông nói trong Mật tục (Minh Phi, Kim Cương Không Hành Mẫu, Độ Mẫu, Phật Mẫu, Liên Hoa sự nghiệp nữ…) tu chứng có bốn pháp: 1. Tu quán tưởng; 2. Tự tu trên ngón tay; 3. Tự tu bằng vật mềm; 4. Hòa hợp với nam sĩ.

Thứ nhất, nói về pháp tu quán tưởng: Thượng sư Liên Hoa Sinh trong cuốn “Nữ ấn thụ trì Mật tu” nói thế này:

“Khi mới khởi phát Bồ Đề tâm, bắt đầu từ tam căn bản, (sau đó quán tưởng) chính mình trong một sát na (biến) thành Hợi mẫu, (đồng thời quán tưởng) ở hoa sen (hạ thể) của mình, giữa bốn cánh (bốn âm môi to nhỏ) xuất hiện chữ A trang nghiêm, Tâm gian (giữa tâm) từ chữ  (chữ Phạn) tưởng thành Không hành Phật bộ, Đỉnh  (chữ Phạn) Kim Cương Không hành, Hầu  (chữ Phạn) Bảo Sinh Không hành, Tề  (chữ Phạn) Liên Hoa Không hành, Mật xứ  (chữ Phạn) Sự Nghiệp Không hành, thân tương thủ ấn, cảm nhận trong Mật tu đại lạc. Trước mặt người ấy, quán tưởng một Phật Phụ Mã đầu Kim Cương khiến cho mình sinh tham (sinh tâm tham dục), Tâm có chữ Xá biến thành Phật dũng sĩ, ở mỗi chỗ Đỉnh  (chữ Phạn), Hầu  (chữ Phạn), Tề  (chữ Phạn), Mật  (chữ Phạn) đều thành Dũng sĩ tứ bộ, những chỗ còn lại như Mật tu đại lạc (chi tiết những gì còn lại chưa nói thì tu như phần nói trong Mật pháp Đại Lạc Kim Cương). Quán tưởng chùy (hạ thể) của (Dũng) Phụ Kim Cương (do quán tưởng mà thành trước đó) thành Ngũ cổ (quán thành năm bộ Kim Cương chùy), bên trong có vật dùng để cúng dường Không Hành Mẫu (bên trong có tinh dịch – Bạch Bồ Đề dùng để cúng dường Không Hành Mẫu), sung mãn tất cả các lỗ chân lông của Phật Phụ Mẫu (Bản tôn quán tưởng thành công trong hạ thể), sinh khởi tạp loại Dũng sĩ Không hành, như hạt vừng mở vỏ (mà xuất hiện).

Về tu quyến thuộc bên ngoài thân mình và người khác, thì phương Đông có Kim Cương Không hành dũng sĩ Như Thường, cho đến phương Bắc cũng có. Trên bốn cánh hoa sen (bốn âm môi của bộ phận sinh dục nữ hành giả) cũng tu thành bốn Không Hành Mẫu, (quán tưởng) nam nữ giao hợp như thế, thì đều không có phạm nhiễm các sai lầm thế gian, như con sâu nhu động mà nhập vào (Dũng Phụ Kim Cương chùy do quán tưởng mà thành như con trùng nhu động chui vào, để dẫn sinh dâm lạc), (sau đó lại) lấy các Không Hành từ Đỉnh (trên) đến mọi lỗ chân lông (trong thân) làm duyên, (quán tưởng) chúng cùng với Dũng sĩ sinh khởi Đại Lạc, ngồi kiết tọa liên hoa, gót chân tì vào giữa chỗ đại tiểu tiện (của chính mình), Kim Cương quyền đặt trên rốn, quán tưởng trong hoa sen (hạ thể) (của mình) có (chữ) Xá đỏ hiện hai vòng tròn,  (chữ Phạn) làm chữ Mệnh của Không Hành, nhập vào trong chùy (Kim Cương của Phật Phụ do quán tưởng mà thành). Vật cúng dường (Bạch Bồ Đề - tinh dịch) của chùy đó (có trong hạ thể của Phật Phụ) như mưa rơi xuống (tựa như) băng phiến. Móc lấy chữ Xá này (Bạch Bồ Đề trong hạ thể của Phật Phụ) để cúng (dường) thượng sư trên Đỉnh và Không Hành (Dũng Phụ mẫu) năm nơi (ở năm luân trong cơ thể). Sau cùng, lắc rùng mình như con dê, lăn người trên đất như con ngựa, an trú ở Bản thể. Trung khí xuất ra để được kiên cố. Ban đầu, khi Bản tôn thân như ảnh tương giáng, như trong khẩu quyết Rùa (chi tiết xem trong mấy Tiết trước), chú ý ở Đỉnh (đầu). Khí từng bước hòa hoãn, thực hành đối trị mãnh liệt, đó là ba yếu quyết. Khi chiết, dùng pháp Hổ ẩu (hổ nôn), chân tay tâm áp đất, trong miệng niệm  (chữ Phạn) chín lần, ở trái phải giữa hành ba lần ba bằng pháp Hồ khứu (cáo ngửi). Chiết từ bên phải, bên phải hô ba lần; Bên trái và ở giữa cũng như thế. Khi thân chiết ở bên trái và ở giữa, quyền (nắm đấm) ấn vào vú, thân hơi nghiêng sang bên trái phải phía trước, như đầu rắn khởi thế. Người quán tưởng, câu móc chữ Hồng (hum) trong nam chùy, hồng bạch Minh điểm theo mạch trong người nữ dùng cúng dường thượng sư Không Hành giống như trên đã nói. Về pháp khiến cho Minh điểm an trú, ngồi kiết già hai tay đặt trên đầu gối, trung khí phụt ra, mắt nhìn hư không, thân như con dê lắc mình. Hai tay ở tư thế kéo tên bắn cung, vỗ sườn dưới, thân dưới chuyển biến, từ tư thế kiết già nhảy lên, rồi lại ngồi kiết già. Nắm quyền từ đầu gối men lên trên duỗi ngang ra, góc đất áp Hầu, thân trên trái phải vặn mình ba lần, tay xoa khắp nơi. Dùng pháp Sư tử hí cầu, thực hành nhiều lần, có thể trừ tất cả các chướng ngại. Cuối cùng trì khí, an trú Bản tịnh, hồi hướng phát nguyện. Lĩnh nạp tứ hỷ, tu không đứt đoạn”. (34-569~570)

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg