Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
CHƯƠNG 9: Tiết 7: Lấy âm bổ dương – chiết xuất Minh điểm từ thân người khác giới |
CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT
TẬP BA
Phật nói rằng: “Thuần tình tức là hôn trầm, vào địa ngục A Tỳ. Nếu trong tâm hôn trầm đó lại mắc tội phỉ báng Đại thừa, phá hủy giới cấm của Phật, vọng ngôn thuyết pháp, hư tham tín thí, lạm đòi cung kính, ngũ nghịch thập trọng, thì càng đọa vào địa ngục A Tỳ thập phương”. (Kinh Lăng Nghiêm – quyển 8)
Phật lại nói rằng: “Những người đó đem Pháp thân Bồ Đề Phật Niết Bàn: tức là hiện tiền trên thân thịt của ta, cha cha con con đời đời tương sinh, tức là Pháp thân thường trụ bất tuyệt. Đều chỉ hiện tại tức là Phật quốc, không khác gì tịnh cư và tướng kim sắc. Người đó tin theo, quên mất cái tâm ban đầu, thân mệnh quy y, đắc cái chưa từng có. Những kẻ ngu đó mê hoặc xưng là Bồ Tát, truy cứu tâm họ; (thấy) phá luật nghi của Phật, thực hành tham dục trong bí mật, trong miệng thường nói hay rằng ‘Nhãn nhĩ tỵ thiệt đều là Tịnh Độ, hai căn nam nữ tức là chỗ chân thật của Bồ Đề Niết Bàn’... Ngươi nên hiểu rõ trước, không nhập luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa vào địa ngục Vô Gián”. (Kinh Lăng Nghiêm – quyển 9)
CHƯƠNG 9: VÔ THƯỢNG DU GIÀ (VÔ THƯỢNG YOGA)
Tiết 7: Lấy âm bổ dương – chiết xuất Minh điểm từ thân người khác giới Ý nghĩa của lấy âm bổ dương là dựa vào pháp song thân hợp tu, khi giao hợp, vận khí chiết xuất lấy Minh điểm từ người nữ (chiết xuất lấy dâm dịch hoặc tịnh phần của người nữ) để cầu bổ ích cho Mạch khí Minh điểm của bản thân mình, hy vọng có thể thông qua pháp tu song thân, sớm có ngày tiến vào cảnh giới “Lạc Không song vận” đang mong cầu, khiến cho cái Đại Lạc dâm lạc hiện tiền mà không dẫn đến xuất tinh, nhằm trụ lâu trong cảnh giới Đại Lạc đó mà “Lạc Không song vận”, thể nghiệm “Lạc Không bất nhị”, từ đó chứng nghiệm đầy đủ mà “nhanh chóng thành Phật”. Mật điển nói rằng: “Theo cách lấy thuốc nói rằng: Lấy thuốc của Đạo gia là sau khi xuất hiện kinh nguyệt lần đầu tiên, khi dư hồng chưa dứt (trước khi máu kinh nguyệt còn lại vẫn chưa hoàn toàn ra hết hẳn), lúc khô ráo (tức lượng máu kinh ít ỏi còn lại vẫn chưa chảy ra) thì đó là lúc mà Đạo gia gọi là “lấy thuốc”. Trương Tam Phong nói câu “Mới dùng khoảng giữa tính tháng năm” chính là ý này. Mà lấy thuốc lại có hai loại, chia làm Nhâm duyên và Quý duyên. Nhâm duyên là khí ấm của người con gái, còn Quý duyên chính là Thiên quý (kinh nguyệt) của người nữ. Người lấy Quý duyên như nói ở trên, nhưng Đạo gia thông thường cho rằng lấy Quý duyên không có nhiều ý nghĩa lắm, gọi nó là Nê thủy đan pháp. Còn lấy Nhâm duyên mới là chính tông. Sau khi lấy được Nhâm duyên, hôn mê bảy ngày. Nếu công phu không tốt, thường vì thế mà dẫn đến tử vong. Qua đó có thể chứng mình, tu Đạo công rất nguy hiểm. Lại còn chứng minh rằng cái mà Đạo công tu được là công phu có xu hướng nhập ma hoại mạch. Nếu là Mật pháp thì lựa chọn người nữ trẻ, sức khỏe tốt là quan trọng nhất, và không có cái gọi là “lấy thuốc”. Nhưng để tìm được mạch Đại Lạc, thì dùng các loại “già phu” (là công phu dùng các loại cực khoái tình dục nhịn xuống không xuất tinh” để tìm, cái lấy được chính là thời kỳ Minh điểm hòa tan. Người tu thành tựu, hai hồng thân cùng bay đến Sắc Cứu Cánh thiên. Bất luận thế nào, tuyệt đối không có ai bị hôn mê” (32-467). Cái gọi là “già phu”, không phải là ngồi kiết già tu định như trong Hiển giáo nói, mà là chỉ các loại tư thế trong song thân pháp khiến cho cơn lạc xúc lên đến cực điểm, có thể dẫn đến cảnh giới tạm ngừng hô hấp. Phần trước từng đưa ra lời thuật của Tông Khách Ba, ở đây không nhắc lại nữa. Trần Kiện Dân nói trong đoạn văn này rằng “Người tu thành tựu, hai hồng thân cùng bay đến Sắc Cứu Cánh thiên”, đó chỉ là sự ức tưởng (phỏng đoán), vì câu này có 2 lỗi. Thứ nhất, thân hồng quang không thể bay được đến Sắc Cứu Cánh thiên; thứ hai, cảnh giới Lạc Không bất nhị trong song thân pháp, mãi mãi không thể nào đến được Sắc Cứu Cánh thiên. Vì sao vậy? Vì thân hồng quang là thân bất tịnh ở Dục giới, là cái thân do tu pháp dâm lạc mà thành, không thể nào sinh được đến Lục thiên ở Dục giới, huống hồ lại có thể đến tận Sắc giới? lại còn bay lên đến tận đỉnh cao nhất của Sắc giới nữa? Nay nói về thiên nhân ở Lục thiên Dục giới, thiên nhân nam nữ đều đạm bạc hơn hành giả Mật tông ở nhân gian. Hành giả Mật tông tu Song thân pháp, nam nữ ái dục là thứ nặng nhất trong hữu tình ở nhân gian, vì ở trong Song thân pháp nỗ lực cầu mong khoái cảm dâm lạc và trụ lâu ở trong cảm giác lạc xúc đó. Tuy Lục thiên Dục giới và nhân gian đều có nam nữ dục, nhưng cái tâm tham dâm lạc lại chia thành nặng nhẹ dày mỏng, trong đó nhân gian là nặng nhất, càng lên cao thì càng nhẹ. Ví dụ, lạc xúc dâm dục ở nhân gian, cần phải có sự giao hợp hai căn (bộ phận sinh dục) nam nữ, khi đạt đến cực khoái tình dục, trong dâm căn có phong khí xuất ra, thì thỏa mãn tham tâm. Còn ở Dạ Ma thiên tầng trời thứ ba, nam nữ chỉ cần ôm nhau là thỏa mãn được tham tâm, đã không còn cần sự giao tiếp nhị căn nam nữ nữa. Các thiên nhân ở Đâu Suất Đà thiên tầng trời thứ tư, chỉ cần nắm tay nhau là được thỏa mãn tham tâm. Các thiên nhân ở Hóa Lạc thiên tầng trời thứ năm chỉ cần nam nữ nhìn nhau mà cười là được thỏa mãn sự tham dục rồi. Còn các thiên nhân ở Tha Hóa Tự Tại thiên tầng trời thứ sáu, chỉ cần nam nữ nhìn nhau là đã được thỏa mãn dâm dục. Như vậy, càng hướng lên trên, thì tâm tham cầu ái dục nam nữ càng nhạt dần, cái lạc xúc dâm dục thông qua sự tiếp dục bộ phận sinh dục chỉ đến tầng trời thứ hai là dừng hẳn, lên đến tầng trời thứ ba thì đã không còn cảm giác dâm lạc của tiếp xúc bộ phận sinh dục nữa. Thế mà nay các thày Mật tông không biết đạo lý này, còn ra sức truy cầu cảm giác dâm lạc đến cực điểm, mong muốn được cảm nhận dâm lạc toàn thân và kéo dài mãi, trong cảnh giới đó quán “Không”. Mà cái “Không” quán được đó lại không phải là “Không” trong pháp Nhị thừa mà Phật giảng, cũng không phải là “Như Lai Tạng Không Tính” Phật nói trong pháp Đại thừa. Với cái tâm cực kỳ chấp trước tham dục đó, làm sao có thể thượng sinh lên các tầng trời của Dục giới được? Muốn cầu sinh lên đến tầng trời Tứ vương thiên, chắc chắn còn không thể được, nói chi đến Sắc giới thiên? Huống hồ là lên đến tận Sắc Cứu Cánh thiên tầng trời cao nhất của Sắc giới? Người có trí chắn chắn sẽ không tin vào họ. Nếu như cái tham muốn nhìn thân người nam nữ cũng đã đoạn trừ, lại là người có định lực cơ bản, thì mới có thể sinh lên tầng trời Sơ thiền, trở thành thiên nhân của Sắc giới. Thiên nhân ở Sắc giới không có tướng nam nữ, họ đều là thân trung tính, không còn chia thành nam giới, nữ giới, đó là vì không còn bộ phận sinh dục nam nữ nữa, cũng không có lục phủ ngũ tạng mà ăn đoàn thực nữa. Nếu như người nào có thể lìa xa cái tâm tham lạc xúc của nam nữ căn, đồng thời lìa xa khỏi cái tham tiếp xúc người khác giới, lại có định lực cơ bản (Sơ thiền) thì mới có thể sinh lên đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới sau khi xả thọ (chết). Còn nếu là người khi còn sống mà ra sức truy cầu cảm giác dâm lạc, không chỉ không thể sinh lên đến Sắc giới, bởi đã trở thành người tham dâm lạc nam nữ nhất thế gian, còn không thể sinh được đến Tứ vương thiên là tầng trời thấp nhất trong Dục giới thiên, huống hồ là sinh được đến Sơ thiền thiên ở Sắc giới? Đã không thể nào sinh được đến Sơ thiền thiên là tầng trời thấp nhất trong Sắc giới, thì làm sao có thể sinh được đến Nhị, Tam, Tứ thiền thiên? Đã không thể sinh được lên Tứ vương thiên thấp nhất trong Lục thiên ở Dục giới, thì làm sao có thể sinh được đến Sắc Cứu Cánh thiên mà ngay cả La Hán tứ quả còn không thể đến? Cho nên, nói pháp tu song thân của Mật tông có thể khiến cho người ta sinh được đến Sắc Cứu Cánh thiên chỉ là vọng tưởng của chính họ, là những lời trùm đầu người học mà thôi. Lại nữa, Song thân pháp mà các thầy của Mật tông tu luyện còn không thể chứng được định cảnh Sơ thiền, sao có thể sinh được lên đến Sắc giới thiên, huống hồ là Sắc Cứu Cánh thiên cao nhất trong Sắc giới? Không có lý nào hết. Vì sao vậy? Đó là vì người sinh được lên đến Sắc giới thiên, trước hết phải tu chứng được Sơ thiền định. Mà người muốn chứng được Sơ thiền định, việc trước hết cần làm là phải đoạn trừ được dâm tâm. Đến ngay cả cái “tham nhìn người khác giới” còn chưa đoạn, thì nói gì đến việc đoạn cái tham nắm tay, ôm ấp, quan hệ tình dục nhị căn và cực khoái tình dục? Huồng hồ hành giả Mật tông còn truy cầu muốn được chìm đắm trong cái Lạc kéo dài và tột độ? Đó chính là sự tham cầu dâm lạc nặng nhất, tuy rằng họ miệng tự xưng là trong lòng không tham, kỳ thực đều là những lời tự an ủi, về bản chất chính là cái đại tham, cực tham mà thôi. Quan sát nội hàm pháp tu song thân do Liên Hoa Sinh truyền thụ, lại quan sát sự quán tưởng của hành giả Mật tông khi cảm nhận lạc xúc trong cảnh giới pháp tu song thân, lấy dâm lạc để cúng dường “chư Phật” trong hạ thể (bộ phận sinh dục), có thể thấy rằng những hành giả và “chư Phật” đó đều là những “người” tham dục cực nặng, sao có thể nói rằng trụ lâu trong cảnh giới cảm nhận dâm lạc mà không có tham tâm? Quả thực đó là những người khẩu thị tâm phi (nói một đằng nghĩ một nẻo). Đây hoàn toàn là sự thực, được ghi chép trong Mật tục (kinh điển Mật tông Tây Tạng), chứ không phải là giảo biện. Hành giả Mật tông như vậy, vừa không chứng được định cảnh Sơ thiền, cũng chưa đoạn trừ được cái tham dâm lạc nam nữ của Dục giới, trong khi đó Đại Lạc câu sinh lạc của Song thân pháp chính là cái tham cực nặng trong Dục giới. Sự tham dâm trong Dục giới không có cái nào vượt qua cái tham này, thì sao có thể nói có thể sinh lên được Lục thiên của Dục giới cho đến Sắc giới thiên? Lại còn cuồng ngôn nói có thể sinh lên đến tận Sắc Cứu Cánh thiên – đỉnh trời Sắc giới mà ngay cả La Hán cũng không thể tới. Không có lý gì hết! Lại nữa, cứ theo như các thầy Mật tông nói và tu, có thể “chứng được” Hồng quang thân. Thế nhưng, Hồng quang thân chỉ là pháp của nhân gian thuộc Dục giới. Nếu đã là thứ tu chứng và thành công trong cảnh giới dâm lạc thô nặng nhất của Dục giới, thì không thể nào tương ứng với Sắc giới thiên. Như thế, pháp dâm xúc của Dục giới đã không thể lên được đến Sơ thiền thiên của Sắc giới thiên, thì nói gì đến việc lên đến Sắc Cứu Cánh thiên mà ngay cả người chứng Tứ quả cũng không thể đến? Trong khi đó, Bồ Tát cấp Sơ địa ở nhân gian, khi xả thọ vãng sinh đến Sắc Cứu Cánh thiên, phải sinh riêng thành thiên thân Sắc Cứu Cánh thiên trong cảnh giới Trung âm thì mới sinh lên được đến đó. Đó là phải nhờ vào quả báo của Đạo chủng trí mà Bồ Tát chứng được thì mới sinh được đến Sắc Cứu Cánh thiên, tức là quả Dị Thục đáng yêu của Đạo chủng trí, là quả Dị Thục đáng yêu sau khi đoạn trừ được Dị sinh tính, mãi mãi hàng phục được Tính chướng, là quả Dị Thục đáng yêu có được nhờ sức mạnh công đức dũng cảm phát Thập vô tận nguyện, nỗ lực phá tà hiển chính “cứu hộ chúng sinh lìa chúng sinh tướng”…thì mới có được quả báo này. Hoàn toàn không phải là dựa vào Trung âm thân hoặc một thân tu riêng nào đó (như Hồng quang thân) để sinh đến đó (Sắc Cứu Cánh thiên). Vì Hồng quang thân không thể nào trụ được ở Dục giới thiên và Sắc giới thiên, bởi nó khác xa với thiên thân Dục giới và thiên thân Sắc giới. Bởi thân này (Hồng quang thân) không hề có Đạo chủng trí, pháp tu song thân cũng không thể vĩnh viễn hàng phục Dị sinh tính, hơn nữa Song thân pháp mà Hồng quang thân nương dựa vào bản chất chính là “pháp Dị sinh tính”. Hồng quang thân tu thành nhờ pháp Dị sinh tính mãi mãi không thể tương ứng với Sắc Cứu Cánh thiên. Người chứng được Hồng quang thân không thể hiểu tí gì về Đạo chủng trí của Sơ địa, cho nên mãi mãi không thể nào sinh ra được quả Dị Thục đáng yêu của Sắc Cứu Cánh thiên, bởi lẽ Sơ thiền cho đến Sắc Cứu Cánh thiên đều mãi mãi lìa xa dâm xúc vậy. Nay các thầy Mật tông không hiểu gì về đạo lý này, không biết việc tu hành Song thân pháp mãi mãi không thể chứng được Phật Bồ Đề, mãi mãi không thể chứng được Đạo chủng trí, mãi mãi không thể chứng được công đức của Sơ địa, nhưng lại vọng tưởng lấy Hồng quang thân tu bằng Song thân pháp để sinh lên tầng Sắc Cứu Cánh thiên, quả thật là những kẻ ngu si. Bản thân thượng sư là người chỉ đạo và giúp đỡ Minh Phi còn không thể sinh đến Dục giới thiên, huống hồ có thể đồng thời khiến cho Minh Phi cùng bay đến Sắc giới thiên? Hơn nữa lại là Sắc Cứu Cánh thiên? Không có lý gì hết! Sự vọng tưởng trái lý ngược giáo của các Lạt Ma Mật tông như thế, các đệ tử lại tin theo như vậy, sao có thể nói đó là Phật pháp chân thực của Phật giáo được? Sao có thể nói là vượt hơn cả Phật pháp của Hiển giáo? Đây căn bản chỉ là ngoại đạo pháp mà thôi. Thượng sư Liên Hoa Sinh có khẩu truyền, lấy pháp hành dâm để chiết xuất lấy Minh điểm (tịnh phần dâm dịch) của Minh Phi, có thể thành tựu Kim Cương thân (thành Cứu Cánh Phật) ngay trong đời này như sau: “Từ Minh điểm có thể tự tại mình, chiết lấy từ người nữ có hai loại: 1. Dựa vào khí; 2. Dựa vào vật. Đầu tiên, “dựa vào khí”, người nữ bị chiết xuất (lấy Minh điểm) đã sinh con dù bảy người, không bằng lấy từ một người chưa sinh con; người đã có chồng dù là bảy người, không bằng lấy một người nữ chưa chồng; dáng người đoan chính vừa ý dù là bảy người, không bằng bảy thiếu nữ; tuổi từ mười ba đến hai mười lăm có thể chiết lấy, còn tuổi từ hai sáu đến ba lăm, họ chỉ có thể tự chiết cho bản thân, Minh điểm của họ không thể chiết dùng được. Trong các loại Không hành, người có chủng tính liên hoa có thể chiết (chú thích gốc: có thể chiết tức là dễ chiết, vì nó dễ rò rớt ra), là nền tảng để trường thọ. Liên hoa nữ, thịt hồng bạch tươi non, hồng Bồ Đề của người nữ ấy như mưa rơi xuống, eo thon nhỏ, dáng người vừa vặn, đẹp đẽ hài lòng, người nam nhìn thấy là vui sướng, người nữ bị chạm vào tự thích muốn giao hoan, đó là người có tinh hoa bên trong; lấy chùy (dương vật) đưa lại gần hoa sen (âm hộ) người nữ, tự nhiên phát ra âm thanh đại lạc. Khi chùy nhập vào liên cung, như trẻ con bú sữa, tự biết ngậm lại, đó chính là liên chủng. Cách bên ngoài chừng bốn đốt ngón tay, có mạch hình tròn, cần phải tìm lấy cái mạch đó trước; Phải gia hành (hỗ trợ) để tìm mạch, tức là các hành vi hôn, ôm, vuốt sườn… Khi người nữ sinh lạc, lấy chùy dò thám bên ngoài, nói nhiều lời tham (ngôn từ dâm dục); Người nữ mặt đỏ, thở dốc, thân run rẩy, trong hoa sen có nước nhuần ẩm ướt, lúc này không thể hành ngay (tức lúc này không được thực hành chiết lấy Minh điểm của người nữ); Nên uống “thuốc bổ, rượu”, lại dùng băng phiến, đinh hương, hồng bạch đàn uống vào, để tịnh phần Minh điểm của người nữ tăng trưởng, sau đó bình đẳng trú ở đó (sau đó hai người đồng thời trụ vào cơn cực khoái tình dục). Khi đại lạc nam nữ ngang nhau, thì mới có thể chiết lấy, đó là người có mạch tốt. (Nếu) làm như thế mà không thể chiết được, thì cần thực hành phương tiện tìm mạch: Bôi rượu, mật ong, bơ lên thân thể người nữ; lại làm riêng một cái chùy bằng chất len, hình dáng to như chùy tự nhiên, chỉ có điều thân nó hơi dài, đầu hơi nhọn, buộc nó bằng lụa mỏng, trên phết dầu bôi trơn, rượu và bơ, đút vào hậu môn (của Minh Phi); Lại làm thêm hai quả cầu sợi đặt vào eo người nữ, đeo trên eo thon; Lưng gối thì đệm yên (yên ngựa), để người nữ nằm ngửa ưỡn lên; Để hai quả cầu bên eo rơi gần mông, mạch từ âm môn (âm hộ) thò ra, như con cá con, như đầu vú, lấy ngón tay vén cánh hoa sen, dùng thuốc bôi lên mạch này, lấy tay sờ (đưa vào mà dò thám) mạch, có thể khiến nó xuất ra ngoài hoa sen sáu đốt ngón tay (có thể khiến nó duỗi dài ra ngoài âm hộ dài chừng sáu đốt ngón tay), giữa bốn đốt ngón tay, dưới cũng hai đốt ngón tay. Lấy mạch này đút vào lỗ chùy (lỗ dương vật), thì có thể chiết xuất được. Khi lạc bình đẳng (hai người đều đã đạt đến cực khoái tình dục), nỗ lực chiết lấy Minh điểm. Khi chiết xuất xong, thân cũng sinh ra tướng ấm nồng; Sau đó sẽ sinh ra lạc bất (năng) nhẫn (sướng không chịu nổi), thì nên hành tán pháp, như con dê rùng mình. Lại có pháp rằng: Lấy chùy len nhập liên cung, người nữ phát ra âm thanh sướng rên, lấy bốn ngón tay trái đã mài bóng móng ngón tay, bôi thuốc vào mạch, có thể duỗi dài mà ra, rất mềm. Chùy len cần rút ra khỏi hậu môn, sau đó đút vào liên cung mà chiết (chú thích gốc: chùy thật nhập, chùy len rút ra, cần làm đồng thời, như gậy quân đội đánh nhau, một bên tiến một bên lùi). Lại có pháp rằng: Lấy chùy len đút vào hậu môn (của Minh Phi), chân tay ôm chặt, sau đó lấy thuốc bôi vào mạch, đút vào lỗ chùy, chùy hơi nhập vào một chút thì rút ngay chùy len ra (Cống sư nói: Hai chùy đồng thời bức ép vào trong, người nữ sẽ sướng quá mà chết, cho nên cần thận trọng mà làm). Thuốc khai mạch: Mật ong sống, sữa khô (chú thích gốc: Thân sư nói: là sữa thường dính trong thùng sữa; Cống sư nói: sau khi lấy sữa, là phần sữa dư còn đang nhỏ giọt), bạch cẩu chùy (dương vật con chó trắng), quản trọng, hoa tiêu, ô thủ hoa, lỗ sa; Đem bôi lên mạch, đồng thời bôi lên sen và chùy. Khi chùy nhập sen cung, không được lấy khí từ trên đè xuống; Sinh ra cái tham mãnh liệt, động tác hạ bộ (phần thân dưới) cần chậm, chùy ngậm mạch tất sinh đại lạc; Tự mình chiết, tán nên ra sức hành, để Minh điểm được kiên cố. Minh điểm từ thân của người khác, từ mã đầu (đầu ngựa) hiển rõ, tâm mắt chuyên chú vào hoa văn trắng men giữa mã đầu. Chùy trái phải, lên xuống động mạnh, người nữ run rẩy, phát ra âm thanh yêu kiều, khí suyễn (thở dốc). Từ (chữ) Hồng (hum) trong lỗ chùy, móc vào (chữ) Hồng trong hoa sen, niệm âm (chữ) Hồng dài, chiết đến đỉnh, tương hợp với (chữ) Hàng, đầy đủ các phần thân lục chi (chú thích gốc: như chuyển mắt…) Ra sức mà hành, sẽ chiết được (Minh điểm) không phải nghi ngờ… Chiết bằng quyền pháp: Chùy nhập sen cung, người nữ sinh ra “bất nhẫn lạc”, chùy cũng phát nóng. Khi sinh lạc khoái, trên đỉnh của mình làm duyên, chùy đút sau vào tận gốc, rồi hơi nâng lên hướng ra ngoài, niệm âm Hồng dài ba lần, (quán tưởng) Mẫu hóa quang (ánh sáng) nhập vào trong lỗ chùy, từ Trung mạch đến Đỉnh hàng, không có sai biệt (vô nhị), lan khắp toàn thân, an trú trong định Không Lạc bất nhị; Chùy bỗng cong mềm mà sức nóng vẫn còn, lúc này chính là điềm có thể chiết lấy, ngày sau tất có công năng quang minh tươi đẹp. “Không Hành Mẫu” đầy đủ tướng, từ mười sáu đến hai mươi lăm tuổi, hạng thượng đẳng mỗi đêm (có thể chiết lấy) mười lần, trung đẳng bốn lần, còn ba lần là hạ đẳng, hạ đẳng nhất là một lần không ngắt quãng. Khí tất phải nhập được vào Trung mạch. Tướng của nó là: hai đầu vú nhô ra, Không Lạc bất nhị, tự nhiên sinh ra. Quang minh thọ trì: hành giả có thể xuất ánh sáng ngũ sắc. Cảm thụ cái lạc: Tuy nhập vào bụi gai mà thân lạc không dứt, đó gọi là Sư tử du hí Tam ma địa, đó là nhờ dựa vào công đức “Cụ tính tướng nghiệp ấn”. Khi nghiệp ấn quyết định, thì cần nói cho đối phương biết về pháp Đại, Tiểu thừa, rồi thực hiện quán đỉnh thứ tư, tỉ mỉ ôn nhu mà nhiếp thụ họ. Cần lắng nghe ta dặn dò, ta cũng cần phải giữ bí mật, thì tất cả Không hành đều có thể nhiếp trì. Pháp khí tức thụ trì mãnh lợi: Khí trái phải giữa thở mạnh ra, dùng khí mãnh lợi đó để hấp thu người nữ. Tiền khí đè xuống, hậu khí nhấc lên, trì khí không buông, nơi khí trụ cần thả lỏng, thức an trú ở bản tịnh, thân an trú ở lạc, phàm những gì hiển hiện ra đều là an lạc, Câu sinh trí không ngừng sinh ra, được thành tựu tự thân bất tử. Người có thể chiết xuất lấy tịnh phần, trường thọ không bệnh, mặt mũi sáng sủa, thọ trì tài vật Tam giới, nhiếp thụ tất cả Không Hành Mẫu, và được họ thọ ký, tên gọi Phổ Văn. Lời nói có thể tùy loại mà thuyết pháp, lấy cảm thụ Không Lạc sống qua ngày, hoàn thành sự nghiệp bát thành tựu, đắc Câu sinh Pháp thân, giành được Hồng quang Báo thân và các loại Hóa thân không ngừng sinh ra; Tam thân không khác, đắc an lạc đại thân. Thượng đẳng thì đời này trở thành Kim Cương thân, trung đẳng thì ở giai đoạn Trung âm thành tựu Không hành, hạ đẳng thì thành Phật ở đời sau” (34-560~562, 563~564) Việc dạy tu thành Phật như thế khác biệt rất lớn so với Phật đạo nói trong các kinh Tam thừa, về bản chất nó chỉ là pháp “tà kiến, tà tu của ngoại đạo”. Như Liên Hoa Sinh đã nói: “Người có thể chiết xuất lấy tịnh phần, trường thọ không bệnh, mặt mũi sáng sủa, thọ trì tài vật Tam giới, nhiếp thụ tất cả Không Hành Mẫu, và được họ thọ ký, tên gọi Phổ Văn”, câu này có sai lầm rất lớn. Cảnh giới mà Liên Hoa Sinh nói trong đoạn cuối này là chỉ người đã thành Cứu Cánh Phật, tại sao người thành Phật thực sự lại còn phải cần có Không Hành Mẫu (Minh Phi) thọ ký thành Phật cho mình? Không có lý gì cả. Lại nữa, người thọ ký phải được thọ từ vô lượng kiếp trước khi họ chưa thành Phật, chứ không phải là lúc thành Phật mới thọ ký cho, vậy sao Liên Hoa Sinh có thể nói hành giả khi thành Phật thì được sự thọ ký của Không Hành Mẫu? Rất vô lý! Lại nữa, người thành Phật như thế, tức đã thành Phật và có đầy đủ công đức, có thể nhiếp thụ tất cả Không Hành Mẫu. “Phật” như thế sao còn phải được Minh Phi ấn chứng cho khi “thành Phật”? Người thọ ký lúc “thành Phật” thì phải gọi là ấn chứng, chứ không phải là thọ ký. Vì thế, những lời khai thị đó của thượng sư Liên Hoa Sinh mắc quá nhiều sai lầm, sao có thể là những lời đáng nói của người đã thành Phật? Liên Hoa Sinh vốn là giáo chủ Mật giáo, là Báo thân “Phật” được Mật tông sùng kính. Các thầy Mật tông luôn luôn nói chứng lượng trí tuệ của Liên Hoa Sinh là trí tuệ của Báo thân Phật, luôn nói pháp mà Liên Hoa Sinh truyền là pháp thành Phật của Báo thân Phật, còn nói pháp mà Phật Thích Ca truyền chỉ là pháp thành Phật của Hóa thân Phật, không thể khiến người ta thành Báo thân Phật được. Thế nhưng pháp mà “Báo thân Phật Liên Hoa Sinh” nói như trên, ngay cả các Bồ Tát chưa thành Phật đều có thể tùy ý phá tan tà kiến sai lầm của họ, thế mà có thể nói ông ta là người “đã thành Báo thân Phật”. Tuyệt đối không thể có chuyện đó! Lại nữa, Hồng quang thân không phải là Báo thân trang nghiêm của Phật, vì nó là thứ có được nhờ “bất tịnh khí phần”, ở đây không cần nhắc lại nữa. Liên Hoa Sinh lại nói: “Lời nói có thể tùy loại mà thuyết pháp, lấy cảm thụ Không Lạc sống qua ngày, hoàn thành sự nghiệp bát thành tựu, đắc Câu sinh Pháp thân, giành được Hồng quang Báo thân và các loại Hóa thân không ngừng sinh ra; Tam thân không khác, đắc an lạc đại thân. Thượng đẳng thì đời này trở thành Kim Cương thân, trung đẳng thì ở giai đoạn Trung âm thành tựu Không hành, hạ đẳng thì thành Phật ở đời sau”, câu này cũng có sai lầm lớn. Người “thành Phật” như Liên Hoa Sinh nói đó còn chưa thể hiểu được đạo Giải Thoát Nhị thừa thô thiển nhất (vì Liên Hoa Sinh còn chấp thủ Tâm ý thức giác tri an trú lâu dài trong cảm xúc dâm lạc là Tâm Chân Như ở Phật địa, muốn duy trì Tâm đó thường trụ trong Niết Bàn vô dư), còn chưa phải là người kiến đạo Sơ quả trong pháp Thanh Văn, huống hồ sao có thể biết được “Trung đạo quán” và Nhất thiết chủng trí của Bát Nhã trong đạo Phật Bồ Đề? Cho nên những lời mà Liên Hoa Sinh nói thành tựu Hóa thân, Báo thân, Pháp thân đều là những lời tự ý vọng tưởng, không phải là Phật pháp. Lại nữa, các thầy Mật tông xưa nay thường nói rằng: Trong Mật tông, từ Thích Ca đến nay, từng có nhiều vị tổ sư đã thành Báo thân Phật, Cứu cánh Phật; Liên Hoa Sinh là vị Phật đầu tiên của Mật tông, là giáo chủ Mật giáo. Thế nhưng, Phật của Mật tông kiểu này kỳ thực vẫn hoàn toàn là phàm phu, đến Bát Nhã trí của Bồ Tát thất trụ vị còn chưa có, huống hồ tự phong là Phật? Các thầy Mật tông sao có thể suy tôn ông ta thành Báo thân Phật? Lại nữa, việc thường trụ Đại Lạc của Báo thân Phật, thực tế phải đoạn tận Phiền não chướng, Sở tri chướng, khiến cho chủng tử trong Thức thứ tám vĩnh viễn không còn biến dĩ nữa, như thế mới gọi là Thường. “Cứu cánh Thường” như thế có thể khiến cho Thức thứ tám tương ứng với Tâm sở pháp như Biệt cảnh ngũ, Thiện thập nhất, từng cái Tâm sở đều có diệu hành bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn) của nó, không phải là thứ mà Bồ Tát Đẳng Giác có thể biết được, cho nên gọi là Đại Lạc, chứ không phải là lấy cái Lạc của dâm lạc mà bảo đó là Đại Lạc, bởi cái Lạc này chỉ là pháp vô thường, biến dị mà thôi. “Phật” Liên Hoa Sinh của Mật tông coi cái “Đại Lạc” thường trụ trong cảm xúc dâm lạc, đồng thời liên tục duy trì trong cơn cực khoái tình dục là thường trụ Đại Lạc của “Báo thân Phật” của Mật tông. Liên Hoa Sinh nói người “thành Phật” như thế là để “lấy cảm thụ Không Lạc sống qua ngày”, còn Không Lạc mà tất cả những người Mật tông nói đó tức là đệ tứ hỷ của cực khoái tình dục dâm lạc trong Song thân pháp, cái dâm lạc này là cái lạc của Không Lạc bất nhị, Không Lạc song vận trong Mật tông.
|
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |