The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận -5

 Nói tức thân thành Phật ở đời này như vậy – hơn nữa là thành Phật cứu cánh, không chỉ có trong Thời luân Kim Cương mà tất cả các tông phái của Mật tông Tây Tạng đều nói thế, chứ không phải như cư sĩ Trần Lý An phủ nhận đâu. Liên Hoa Sinh cũng truyền thụ pháp tu song thân này, chi tiết xin xem trong Tiết 1 của chương này. Không phải là không truyền thụ pháp tu song thân mà bản thân ông ta cũng tu đi tu lại, chi tiết xin xem truyện ký của Liên Hoa Sinh là biết ngay, ở đây không nhắc lại nữa.

Liên Hoa Sinh nói về pháp chính tu trì như sau:

“Khi đó nên suy nghĩ về tất thảy pháp nhân của phàm thánh, đều từ Minh điểm viên mãn sinh ra, cho nên cần tu trì pháp truyền khẩu tăng trưởng Minh điểm. Phải thực hành tại lều cỏ yên tĩnh nơi không có người nào nhìn trộm, để cho người ấy tắm rửa thân trang nghiêm, bôi dầu thơm lên, đeo túi thơm, thì mới được thỉnh mời các Dũng Phụ Không Hành Mẫu. Tiếp theo là đặt duỗi chân mình lên đùi Minh mẫu cụ tướng[11], ôm hôn nhau, dùng tay vuốt ve miệng môi lưỡi, day hai vú. Hoặc quan sát liên chùy của nhau (cùng nhau ngắm nhìn cơ quan sinh dục của đối phương), chùy đặt lên tay người nữ (đặt dương vật vào trong tay Minh Phi), ra sức biểu thị phương tiện sinh lạc (thực hiện các phương pháp để Minh Phi thấy rõ được lạc xúc đang sinh khởi ở hạ thể người nam). Vào lúc chính tác nghiệp (khi thực hiện hành dâm), nếu sinh tham dục (nếu sinh tâm tham cầu cực khoái tình dục), cần liễu đạt tự tính của nó là diệu dụng của pháp thân pháp (cần hiểu rằng cái tự tính của cái tâm tham muốn xuất tinh trong lúc đạt cực khoái tình dục chính là diệu dụng do pháp của Pháp thân sinh ra), cho nên phải nhận thức Tự tính, Bản lai diện mục trên tham (vì thế cần nhận thức được Tự tính của Tâm trên cái tâm tham đó) để định trên bản diện (để nhận định Tâm giác tri khi đang thụ hưởng lạc khoái chính là Bản lai diện mục, Tự tính bản thể), tham dục phổ thông tự có thể hủy hoại (như thế thì có thể tiêu hủy được cái tham dục thông thường). Đó là phương tiện từ tham dục hiển đại lạc (đây chính là pháp môn phương tiện nhờ tham dục để hiển thị đại lạc), cho nên cần phải tu trì tinh tấn.

Lại nữa, nói về tự tha gia trì, ban đầu phát Bồ Đề tâm tối thắng, quán tất thảy pháp Không, trong không trung hiện ra ngọa cụ, tức là Liên Nhật luân. Trên luân này tự hình thành Kim Cương mã đầu (đầu ngựa), một mặt hai tay, giống như đã nói trong Sinh khởi thứ đệ. Tiếp đến, ở chỗ Mật xứ hiện chữ Hồng (chỗ hạ thể - chỗ kín của mình xuất hiện chữ Hồng), từ chữ Hồng chuyển thành năm bộ chùy, trong các khe hở hiện ra chữ Hồng màu lam, đầu hướng vào trong, lỗ đầu chùy có chữ Phi vàng đỏ hướng ra ngoài. Phật Mẫu trong một sát na chuyển thành Kim Cương Hợi Mẫu (lợn cái) một mặt hai cánh tay, đầy đủ trang nghiêm, cực kỳ an lạc vui vẻ, hai vú nhô ra, đầy đặn tròn trịa (Chú thích gốc: hình dáng nhô ra của đầu vú), sướng không thể chia sẻ. Quán sát Mật xứ vô duyên, nhìn bốn cánh hoa sen[12], trong hoa xuất hiện hoa phôi chữ X (chữ Phạn, lược bỏ) trang nghiêm. Từ trong các mạch luân của Phật Phụ mẫu, tưởng tất thảy Dũng Phụ Dũng mẫu đồng thời mật tu tương đồng (quán tưởng tất cả các Phật Phụ, Phật Mẫu đều cùng Mật tu một kiểu giao hợp). Sau đó, trên liên phôi X (chữ Phạn, lược bỏ), dùng chùy đâm xuống (đút dương vật vào mà hành dâm mãnh liệt); hơi định (khi lạc khoái sinh ra thì hành chậm lại một chút để định xuống), trên Căn bản định vốn dĩ lìa hý luận đó (trên cảnh giới nhất niệm bất sinh của cực khoái dâm lạc đó) tiếp tục lắc thân rùng mình như con dê, toàn thân rung động (khiến cho dâm lạc càng tăng), tưởng Minh điểm chảy xuống như thác (lúc bắn tinh, cần phải quán tưởng nó trút xuống hùng tráng như thác đổ). Lại phải như là nông phu dùng cuốc đào rãnh dẫn nước, không được để (dâm dịch) chảy ra ngoài, mà tán bố khắp toàn thân, chảy đến các luân (sau đó dương vật phải như anh nông dân dùng cuốc đào rãnh dẫn nước về ruộng, không được để cho dâm dịch chảy rớt ra ngoài, mà quán tưởng nâng chiết tịnh phần của dâm dịch – nâng khí phần của dâm dịch – để cho phát tán khắp toàn thân, rồi giáng hạ xuống ngũ luân ở Trung mạch), tu trì như pháp Mật tu. Nhưng giáng hạ đến các luân, thân phải lay lắc, Sự nghiệp khiến Minh điểm không lậu rớt là yếu quyết (các loại động tác trong lúc hành dâm phải sao cho không để tinh dịch lậu rớt ra ngoài mới là quan trọng). Sau đó, khi Minh điểm giáng xuống Mật xứ, tưởng cúng hiến Phật Phụ Không Hành Mẫu ở Mật xứ, làm như trước đã dạy (sau đó khi quán tưởng Minh điểm giáng đến hạ thể, cần quán tưởng lấy thứ lạc thụ này đem cúng dường cho ‘Phật Phụ, Phật Mẫu’ bên trong hạ thể. Pháp cúng dường cũng giống như quá trình thụ lạc khi mình hợp tu với Minh Phi). Khi đó, bằng thiện xảo tu trì, như cái cửa mở thoát nước trong ao tù. Khi trì thượng căn, trụ ở trên Như Lai thể lìa tất thảy biên tế lưới hý luận (trụ ở trên thể Tâm giác tri ở cảnh giới nhất niệm bất sinh trong cực khoái dâm lạc). Khi trì trung căn, lấy khí làm chính, phải trì thượng khí, còn hạ khí thì tựa như bình gà, có gió mà không rò gỉ. Trì hạ khí như thế, thì hạ khí tự nhiên xoay tròn; Rồi trì trung khí (Chú thích gốc: tức khí bất nam bất nữ), thì rốn hơi phình ra ngoài, có thể ổn trì. Nếu dùng pháp quán tưởng trì thiện xảo để luận nó, thì cũng chia thành ba căn thượng trung hạ. Khi trì thượng căn, thì duyên vào Bản lai thanh tịnh kiến “lìa tất thảy biên tế lưới hý luận”. Trì trung căn, quán tưởng chữ Hàng trên như cái cọc buộc ngựa. Trì hạ căn, quán từ trên đỉnh hiện thượng sư Dũng Phụ Dũng mẫu như ánh sáng pha lê, trong ngoài thấu triệt sáng tỏ. Người mới tu nghiệp (Sự nghiệp Thủ ấn mới tu học Song thân pháp), nếu tiết ngay (vừa mới bắt đầu giao hợp đã xuất tinh luôn) thì nên dùng ba ngón tay như cái thang, ấn vào chỗ huyệt Hội Âm để trì bế nó (khiến tinh dịch không xuất ra ngoài). Người nào nâng ngược giỏi thì như kéo nước lên khỏi miệng giếng, tưởng cái tâm chữ Hồng trong chùy như có móc sắt, móc lấy tịnh phần chữ X (chữ Phạn, lược bỏ) màu đỏ trong liên cung của Sự nghiệp Thủ ấn mẫu, tức thì niệm chữ Hồng kéo thật dài, hút vào trong chùy (Chú thích gốc: tận hết sức lực nâng lên), cúng các Bản tôn ở Mật xứ (đem dâm dịch nâng lên đó cúng dường cho Bản tôn phụ mẫu trong hạ thể).

Tiếp đến, từ đường Trung mạch liên tục hút vào rốn, tâm, hầu, đỉnh. Sau khi cúng dường cho các Bản tôn thì xuất ra qua Phạn huyệt, cúng dường thượng sư Kim Cương Trì, thầy Liên Hoa Sinh, các Phật Phụ mẫu trên đỉnh đầu. Khi đó, về Thân yếu là phải đem hết tứ châu (tứ châu là chỉ tứ chi) thu vào Đỉnh Di (Chú thích gốc: như Tu Di rắn quấn), đảo mắt ngước nhìn lên trên, lưỡi đẩy thượng ngạc, địa giác (hạ ngạc) áp hầu kết; toàn thân rùng mình. Về Ngữ yếu, niệm chữ Hồng thật dài, tận hết lượng khí không ngừng nâng nó lên. Khi nâng ở các luân, tam yếu là Thân yếu, Khí yếu, Quán yếu động tác đồng thời, nâng thẳng lên trên. Thực hiện động tác nâng rất khó, thì tại các luân, tam yếu đồng thời làm ba lần.

Tiếp đến, sau khi rời Thủ ấn mẫu (sau khi cơ thể rời khỏi thân Minh Phi), cần thực hiện động tác ngồi một mình, nâng lên tán (nâng lên rồi tán bố khắp các nơi toàn thân). Thân yếu của pháp này là: Chân ngồi an lạc, ...” (34-545~547)

 

Liên Hoa Sinh lại còn khai thị khẩu quyết pháp tu song thân như sau:

“Trò chơi song thân cơ bản có tám, trong mỗi tám loại đó đó lại chia thành tám cái nhỏ hơn, tổng cộng có 64 thức. Tám loại cơ bản gồm, một là Cận hiệp (đùa giỡn sát), hai là Vẫn hợp (hôn hít), ba là Chỉ lộng (đùa nghịch bằng tay), bốn là Xỉ ngoạn (chơi bằng răng), năm là Liên hý (nghịch đùa hoa sen), sáu là Thanh vận (âm thanh), bảy là Nhục cảm (cảm giác xác thịt), tám là Điên loan (điên loan đảo phượng).

  1. Về Cận hiệp, chia thành tám loại: Thứ nhất quan sát dung nhan, sinh lòng hoan hỷ, hai người đồng hành, chạm vài phần thân, đó gọi là Thiết ngọc; Hai là vuốt ve cặp vú, gọi là Thôi tựu; Ba là lời nói tỉ tê, gọi là Khiên tính; Bốn là áp sát vuốt ve, môi lưỡi gặm nhau, gọi là Ý nhạ; Năm là lấy tay khều móc cổ đối phương, hôn điên cuồng mãnh liệt phát ra âm thanh, gọi là Đằng triền; Sáu là đứng dậy dùng chân dẫm lên mu bàn chân đối phương, ôm quặt eo người ấy, tay bám cổ, môi mút môi, gọi là Trích anh; Bảy là lên nằm giường hôn nhau, ôm eo nhau, gọi là Khế nhập; Tám là chùy nhập liên cung (đút dương vật vào âm hộ), gọi là Thủy nhũ.
  2. Về Vẫn hợp: Tức là hôn vào tám chỗ miệng, hầu, vú, lườn, eo, mũi, gò má, hoa sen (âm hộ).
  3. Về Chỉ lộng, có tám thức để khiến dâm thủy dầm dề, dựng đứng cả lông mao: Một là dùng tay vẽ nhẹ lên các chỗ môi, vú để hiện lên vết hằn nhỏ trên da thịt, gọi là Ngẫu ti. Hai là dùng ngón tay ấn sâu hơn chỗ vú, hầu khiến da hiện lên những đường cong, gọi là Bán nguyệt. Ba là khi người ấy cảm thấy buồn ngứa, e thẹn ngọ ngoạy không ngừng thì dùng cả năm ngón tay ấn đều, gọi là Đàn thành. Bốn là dùng tay vẽ tại các chỗ lỗ rốn, xương cụt, gọi là Triền miên. Năm là vẽ những đường xiên ở các chỗ trước, gọi là Khinh sa. Sáu là dùng chùy thập tự vẽ ở gò ngực và dưới bầu vú, gọi là Yết ma. Bảy là dùng năm đầu móng tay ấn xung quanh vú gọi là Mai hoa. Tám là vẽ hình cánh hoa sen quanh vú gọi là Tiểu liên.
  4. Về Xỉ ngoạn: Một là lòng tham sinh khởi (sinh dục vọng), sắc mặt đỏ hồng hào, gọi là Xuân sắc; Hai là dùng răng ấn nhẹ lên môi người ấy, gọi là Điểm giáng; Ba là dùng môi và răng khép lại mà cắn lên hai mép má người nữ, gọi là San hô; Bốn là hai má, răng tóc hiển lộ, gọi là Tiếu yếp (tức là cười sao cho lộ răng mà má lúm xuống); Năm là làm vẻ nhe nanh, dùng một hai cái răng cắn nhau, gọi là Minh điểm; Sáu là lấy răng ấn liền thành các vết hằn ở các chỗ eo, yết hầu, mi, mặt, gọi là Châu man; Bảy là lấy răng ấn tản mạn khắp nơi thành các vết hằn ở vú, lưng tựa như mây bay trên hư không, không chỗ cố định, gọi là Xán vân; Tám là sau khi dùng móng tay vẽ nhẹ dưới sườn thì lấy răng ấn vào đó, gọi là Liên châu. Tóm lại, để kích thích tham tâm hoan lạc, lấy răng và đầu ngón tay cùng ấn vẽ vào các chỗ dễ gây ngứa nhột như dưới tai, quanh cổ, dưới sườn, trên vú, trong mật liên (âm hộ), eo lưng, động tác phải song hành nhanh nhẹn mới là diệu pháp.
  5. Về Liên hý cũng chia thành tám: Một là bụng dán sát gần chùy, gõ rà đầu chày lên các cánh hoa sen bên ngoài (môi ngoài âm hộ), gọi là Thổ lãng. Hai là tay cầm gốc chùy, để nửa đầu chày nhập vào liên cung (đút nửa thân dương vật vào âm đạo), gọi là Khinh khiêu; Ba là người nữ duỗi chân nằm ngửa, chùy người nam như cắm chùy Phổ Ba, chọc thẳng xuống dưới trụ lại ở đó, gọi là Thâm khiết; Bốn là người nữ sung sướng hoan hỉ, hơi rướn người lên, để cho (chùy) vào sâu nằm im, gọi là Bán tựu; Năm là đột xuất đột nhập, vào ra liên tục, gọi là Đề tiếu; Sáu là vài lần nông một lần sâu, thay nhau mà thực hiện, gọi là Túy tửu; Bảy là trên dưới cùng động cựa, nhúc nhích, gọi là Mặc khế; Tám là ban đầu thì đút vào từ từ một nửa, tiếp đến đột nhiên cắm ngập chùy, gọi là Mãn nguyện.
  6. Về Thanh vận (tiếng kêu rên sướng của Minh Phi) cũng chia thành tám thức: Như tiếng kêu khóc rấm rức (không ra tiếng), như than oán, như thở, như rên, như a-oa-đả, như oa-na-a-đả, như tiểu giải thoát, như a-oa-tước-oa, lần lượt (theo thứ tự là) tựa như tiếng kêu của bồ câu, đỗ quyên, cáp-lý-đả, con cò, ong mật, ngỗng, xuân điểu (én), ba-oa-giá, đều là tiếng phát ra từ trong bụng (đều là âm thanh trực tiếp tự nhiên phát ra từ trong bụng, chứ không phải là âm thanh biểu diễn cố ý làm đằng mồm).
  7. Về Nhục cảm chia làm tám thức: Giống như lúc hôn hít, chủ yếu sử dụng nắm tay, lòng bàn tay, cùi chỏ, eo, mặt…Dùng tay mát xa như trên tạo ra bất kỳ một âm thanh nào trong tám loại thanh vận kể trên, tức là có tham tướng, tất sinh Đại Lạc. Nếu như khí phát ra từ miệng quá lạnh thì ấn lâu, tất sẽ sinh lạc.
  8. Về Điên loan, cơ thể người nam béo phì, người nữ không thể chịu được sức nặng đè xuống, thì phải đảo lộn vị trí mà làm. Người nữ thay vị trí làm như người nam, thực hiện như sau: Một là vắt ngựa chạy mau gọi là Bào; Hai là cắm lâu rút chậm là Án; Ba là chân quấn lấy nhau, bụng người nữ như chuyển luân gọi là Triển; Bốn là đùi gót người nam quấn nhau, người nam hơi chuyển động từ dưới, gọi là Si; Năm là người nam nghỉ ngơi gọi là Thản; Sáu là người nam bất động toàn thân, người nữ từ từ làm, gọi là Thoi; Bảy là chân tay người nam duỗi thẳng gọi là Túy; Tám là người nữ quay lưng về phía người nam mà ngồi, làm phía trên gọi là Kiều. 64 thức này tùy ý muốn mà làm, để nhập vào Không – Lạc (64 tư thế trên đây, tự lượng sở thích của mình mà thực hành, nhờ đó mà khế hợp Không Lạc)...

Đại Lạc dẫn đạo môn có trích lục 16 thức: Chủng tính mạch trong hoa sen khác nhau, cho nên phải hiểu các thức chỉ là phương tiện. Tối quan trọng có bốn thức, phân nhánh thành 16 thức: 1. Người chủng Kim Cương, phụ ôm cổ mẫu, mẫu ôm eo phụ, chùy đâm chọc lên xuống, mạch xuất hiện ở bên trái. 2. Người chủng Liên Hoa, nữ nằm ngửa, gối kê cao cổ, chân nữ gác lên vai nữ, phụ ôm chặt phía dưới mà hành, mạch xuất hiện ở bên trên hoặc bên dưới. 3. Người chủng Cụ Thú, chân mẫu gác lên bên trong kheo tay phụ, phụ ôm dưới eo mẫu mà hành, mạch từ bên trái phải mà ra. 4. Người chủng Đại Tượng, chân mẫu duỗi trên ngực phụ, phụ một chân vòng lại ôm mẫu, một chân duỗi, tay ôm hạ bộ mẫu, mạch xuất hiện ở chính giữa liên hoa. Đặc biệt là loại dùng chùy để hành quyền pháp bí mật trên người nữ, tức là lấy chùy gõ đập nhẹ trên mặt hoa sen (trên mặt ngoài âm hộ), sau đó đút vào, bất kể chỗ nào cũng có thể đắc mạch. Sau khi đắc là hoàn thành sự nghiệp, mạch nhỏ dài là thượng phẩm; mạch ngắn thô là chưa khai khẩu, dùng hoa hồng sắc (Chú thích gốc: tên Tạng là điểu thủ giả), rễ cây ??? (tên thực vật tiếng Tạng, chưa rõ ý), đường ong đỏ, sữa bò cục lạnh, bạch cẩu chử (dương vật con chó trắng), đương quy, ??? (tên thực vật tiếng Tạng, chưa rõ ý), quản trọng, hoa tiêu, chu kinh, sữa dê đem bôi lên chùy (bôi thuốc đó lên thân dương vật rồi giao hợp) thì có thể mở cửa mạch (có thể mở được cửa mạch Hải Loa của Minh Phi)”. (34-596~600)

Thượng sư Liên Hoa Sinh còn khai thị khẩu quyết rằng:

“Bốn pháp Thiên tọa, có thể sinh Lạc Minh vô niệm. Bốn pháp phi thiên có thể sinh Minh. Bốn pháp Nhân tọa, có thể sinh Lạc. Bốn pháp Thú tọa, có thể sinh vô niệm.

  1. Về Bốn pháp Thiên tọa: Thứ nhất gọi là “Tư thế đẹp”, nữ ngửa chân đặt lên sau gáy, tay ôm đùi trên của mình, đầu gối phụ quỳ lên người nữ. Thứ hai là “Vô tác vi”, người nữ nằm ngửa, tay ôm chân chỗ kheo chân mình để dựng thẳng đứng, hướng gót lên trên, phụ ôm đầu mẫu mà hành. Thứ ba là “Ngưỡng nhiêm trụ”, giống như phần trên, chỉ không dựng gót mà dựng ngón chân, phụ ôm eo mẫu mà hành. Thứ tư là “Nhất thiết kiến”, người nữ nằm ngửa, thân trên hơi thấp, tay phụ đặt lên hai bên tai trái phải mà hành, gối kê cao cổ, tay nữ từ khèo chân thò ra ôm lấy eo phụ, gối phụ mở ra, quỳ xuống mà hành sự. Bốn loại kể trên, tứ chi phải dùng sức, cánh tay mẫu phải dùng gối đệm cao, thượng khí mẫu xoay tròn hướng xuống dưới đè ép, phụ ở trên từ từ mà hành sự.
  2. Về Bốn pháp phi thiên: Một là mẫu ngửa hai chân, dựng thẳng lên trời, hai tay ôm đùi mình, phụ cúi hai chân duỗi. Thứ hai là mẫu nằm ngửa cũng được mà nằm nghiêng cũng được, chân trái mẫu đặt lên vai phải phụ, chân phải ôm eo phụ, mẫu dùng tay trái để nâng đỡ chân phải, tay phải ôm phụ. Thân trên của phụ hướng lên trên lay động mà hành. Chân phụ duỗi, tay ôm cổ mẫu, liên hoa đùn lớn ra, có thể hành như thế. Thứ ba, đầu gối phụ mở quỳ xuống đất, mẫu ngồi trên đùi phụ, ôm lấy đùi phụ, mở rộng trái phải mà hành. Thứ tư, mẫu hoặc quỳ hoặc nằm nghiêng, chân trái mẫu đưa đến sườn phải, hai tay phụ ôm mông mẫu, hai tay mẫu từ ngoài đùi hướng vào trong ôm lấy mông phụ, chân phụ duỗi ra mà hành. Bốn thức trên đây, hạ môn của mẫu nâng rút, chùy phụ xoay trái mà chọc xuống liên hoa.
  3. Về Bốn pháp Nhân tọa: Thứ nhất, Phật Mẫu ngửa, chân cong gập gác vào vai phụ, đầu gối phụ quỳ mở, mẫu ngồi trong lòng phụ, hai tay phụ ôm cổ mẫu, hai tay mẫu ôm phía trong kheo gối phụ, ngửa cúi đều được. Thứ hai là nữ ngửa, chân đặt bên eo phụ, chân phụ kết song già (kiết già), ôm sườn mẫu. Nữ trì giữ xương mắt cá chân nam, cúi ngửa đều được. Ba là nữ nằm nghiêng, mông trái chạm đất, hai chân gập ra sau, gối mở, hai tay nam nữ ôm nhau, làm bên trái bên phải đều được. Thứ tư là nữ nằm ngửa, chân cong lên trên, lòng bàn chân đặt lên eo phụ, hai tay phụ ôm eo mẫu, rồi đầu gối mẫu mở ra quỳ dưới đất, tay phụ ôm mông mẫu, làm nghiêng hoặc làm ngửa. Bốn thức kể trên, Phật Mẫu nâng bên trái, nam nâng bên phải mà hành sự.
  4. Về Súc sinh pháp chia bốn thức: Thứ nhất gọi là “Kim sí điểu”, nữ đứng thẳng chân, thân cong, mông đẩy ra sau. Hai tay nữ chống hai đùi từ bên trong, chỗ đầy đặn làm thế mở rộng, phụ quỳ phía sau nữ, hai tay ôm vai nữ, thân ngửa ra trước, cổ hướng duỗi lên trên. Thứ hai là thức “Sư tử”, nữ nằm nghiêng phải, mông nữ hướng ra ngoài, phụ hành sự phía sau lưng nữ, ôm dưới eo nữ, nữ nhấc duỗi chân, thân trên của nữ và thân trên của nam tách nhau ra. Thứ ba là thức “đại tượng”, tứ chi nữ chạm đất, eo cong xuống, nam từ sau lưng ôm hông nữ mà hành. Thứ tư là thức “rùa”, mẫu nằm cúi, đầu gối phụ mở ra quỳ dưới đất, mông nữ chui vào trong đùi phụ, hai tay phụ ôm đùi nữ (Chú thích gốc: thấy rằng mẫu nằm sấp trông giống như con rùa rụt chân lại, gập đùi vào mà kê gối cao mông, sau đó mới có thể ôm đùi mẫu). Bốn thức trên đây, hạ khí của người nữ hướng ra ngoài, phụ ngửa ra trước thì sau đó mới có thể vận sức mà hành.
  5. Về Bốn pháp Thú tọa: Thứ nhất gọi là “Tư thế ngang nhiên”, nam ngồi kiểu hoa sen, ôm eo nữ, chân nữ sau khi gác lên eo nam thì hai tay ôm cổ phụ. Thứ hai là “Xí thịnh hành”, nam nằm ngửa, nữ cưỡi lên trên, tay phụ ôm xương hông nữ, hành sự từ dưới lên trên, mẫu hơi cúi, dùng tay chạm đất, thân dưới của mẫu xoay chuyển hai bên trái phải. Thứ ba là “có uy mãnh tỳ”, hông nữ nằm ngửa, cổ thấp, mở dựng đầu gối, tay nữ ôm lấy đùi mình từ bên ngoài, phụ thẳng chân, hai tay chắp ngoài Kim Cương, tức đè lên trên cổ nữ. Thứ tư là “như rồng du hý”, hai thân trên của phụ mẫu đều hướng ra ngoài, hai tay ôm hông nhau, ngửa gập trước sau mà du hý như đang kính lễ (Chú thích gốc: Thức này như thức ngồi hoa sen, không phải là nằm ngửa). Bốn thức kể trên, nam đẩy lên trên, nữ thì xoay tròn. Thức ngồi tuy nhiều, chốt ở quán tưởng là chính”. (34-600~602)

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg