The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận -4

 Về “Nhậm vận” trong Phật pháp Đại thừa, ý là nói các Bồ Tát đích thân chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng xong, thì bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu cũng có thể hiện tiền quan sát hữu tình đều có Thức thứ tám Như Lai Tạng, mà Như Lai Tạng này thì lại tùy duyên nhậm vận, nó tùy ý nhậm vận tương ứng với tất cả các pháp trong tất cả chúng duyên ở thế gian để vận hành Tâm số pháp của mình. Cái bản tính tùy duyên nhậm vận Tâm số pháp của mình đó chính là cái mà những người chân ngộ xưa nay trong Thiền tông mới có thể chứng biết. Trong thân thể các chúng sinh, khi đối ứng với thất thức tâm của mình, nó cũng tùy duyên nhậm vận như vậy, không có chút xíu miễn cưỡng nào, cũng không có chút xíu rối loạn nào, thậm chí ngay cả trong khi chúng sinh ngủ say, hôn mê hay lúc chính tử vị (đang chết thật) thì nó cũng vẫn tùy duyên nhậm vận như vậy mà không chút rối loạn.

Trong sự nhiễu loạn của Lục trần ở thế gian, nó cũng không bị can nhiễu chút xíu nào, mãi mãi vẫn là tùy duyên nhậm vận. Cái mà mãi mãi tùy duyên nhậm vận như thế mới gọi là cái “Nhậm vận” thực sự, chứ tuyệt đối không phải như các thày Mật tông nói thứ “trí tuệ tà dâm” có được nhờ quán hành trong dâm lạc kia mới là “Nhậm vận”, vì cái thứ “dâm trí” này nhất định sẽ đoạn diệt cùng với sự đoạn diệt của Ý thức – chắc chắn sẽ đoạn diệt ở Ngũ vị như lúc ngủ say, hôn mê... Pháp có khởi có diệt như vậy thì tuyệt đối không thể nào gọi nó là pháp nhậm vận được, vì nó không thể nào bất đoạn ở khắp tất cả các thời được.

Cái Tâm giác tri có thể nhận biết khổ lạc thụ thì tuyệt đối không thể nào nói nó là tâm nhậm vận được, vì nó nhất định phải nhận khổ lạc thụ của các pháp Lục trần, trong khi đó chỉ có tâm không nhận khổ lạc thụ của Lục trần mới có thể tùy duyên nhậm vận. Phàm đã là pháp phải nhận khổ lạc thụ thì nhất định sẽ khởi tâm tham ái hoặc chán ghét đối với cảnh giới khổ lạc thụ, thì nhất định sẽ khởi tâm “tiếp tục xúc thụ, lìa xa xúc thụ” trong khổ lạc thụ. Mà đã như thế thì nhất định sẽ sinh khởi tâm tư lượng quyết định đối với Lục trần, thì đương nhiên sẽ tạm thời đoạn diệt cái tính tùy duyên nhậm vận của mình, vậy thì chắc chắn không phải là pháp tùy duyên nhậm vận biến khắp tất cả mọi thời được.

Từ chính lý trên, có thể thấy rằng Song thân pháp hợp tu nam nữ “Lạc Không song vận” mà Mật tông Tây Tạng hoằng truyền kia không phải là pháp tùy duyên nhậm vận được nói đến trong Phật pháp, vì đã không thể tùy ý vận hành trong “tất thảy pháp” thì tuyệt đối không phải là Phật pháp chân chính được.

Với pháp tu tà trái hoang đường như vậy thì Mật tông Tây Tạng quả thật không cần thiết phải tự rêu rao “chỉ riêng mình có” để khinh miệt các tông phái của Hiển giáo vì “thiếu duy nhất pháp này” mà không cứu cánh. Vì sao nói vậy? Vì pháp này thực tế hoàn toàn không liên quan gì đến Tam thừa Bồ Đề, những thứ như “Vô thực, Quảng đại, Độc nhất, Nhậm vận” quán hành trong dâm xúc kia đều không liên quan gì đến Phật pháp, chỉ là mượn dùng (dùng trộm) các danh tướng của Phật pháp để truyền bá pháp tu của chi phái Tính Lực trong Bà La Môn giáo mà thôi.

Giả sử như có cố gắng “tu hành” trong ba đại vô lượng số kiếp (ba đại a tăng kỳ kiếp) đi chăng nữa thì vẫn không thể nào tương ứng với Tam thừa Bồ Đề chân chính, vẫn sẽ rơi vào trong ngoại đạo kiến và tà chứng của ngoại đạo, vẫn sẽ nhầm coi ngoại đạo pháp là tu chứng trong Phật pháp. Người trong Mật tông nhất định phải có lý trí trước vấn đề này, thâm nhập nghiên cứu nó, đừng có đem thân tâm tiền của ra mà tinh tấn tu học Phật pháp nhưng rốt cuộc lại rơi vào trong ngoại đạo pháp, trở thành kẻ đại tội phá hoại Phật pháp.

Pháp nghĩa mà Mật tông tuyên giảng sở dĩ đều là tà trái hoang đường, sai lầm ở chỗ là ngay từ lúc đầu tiên nó đã tà rồi. Tất cả những thứ họ bày đặt ra như quán tưởng, Thiên yoga, Bảo bình khí, quán đỉnh kết duyên, quán đỉnh bình, quán đỉnh bí mật, quán đỉnh thứ tư và sau cùng là thực tu dựa trên khẩu quyết của quán đỉnh thứ tư đều được quán xuyến thông suốt trước sau bằng lý luận của Song thân pháp, nối liền một mạch, không hề rời khỏi bản chất của pháp tu song thân. Mục đích của tu chứng trong Sinh khởi thứ đệ cũng hoàn toàn chỉ là làm công tác chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc thực tu Song thân pháp trong tương lai mà thôi.

Nếu đã sai lầm ngay từ đầu thì tất cả các pháp tu hành đằng sau nhất định đều hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp chân chính. Thế nhưng họ lại đem các danh tướng (danh từ) quả vị tu chứng nói trong các kinh Phật giáo để biên nhập vào cảnh giới ngoại đạo trong Song thân pháp và pháp quán đỉnh bí mật, biến nó trở thành chứng lượng trong Phật pháp, động một cái là tự xưng thành Bồ Tát từ Sơ địa cho đến Thập địa, thậm chí cũng có kẻ tự xưng mình đã thành Phật, đem việc đó ra để khinh miệt những người tu hành đúng pháp trong Hiển giáo rằng họ có chứng lượng nông cạn.

Nếu như truy tìm sự thực, thì các thày Mật tông lại hoàn toàn không hiểu gì về chân nghĩa của Phật pháp, đều hiểu sai be bét về Phật pháp Tam thừa. Thế nhưng họ lại đem tà kiến hiểu nhầm đó để hạ thấp Hiển giáo, nâng cao tông phái của mình là pháp môn “tu hành quả địa”, biếm hạ Hiển tông chỉ là pháp môn “tu hành nhân địa”. Cái thứ tà kiến điên đảo, lại cả vú lấp miệng em nhất ở thế giới Ta Bà (Sa Bà) này không gì hơn nổi các kinh tục bí mật của Mật tông, không gì vượt qua nổi lời nói của các thày Mật tông. Tất cả các nhà tu hành Mật tông hãy nên dùng lý trí mà suy xét, hiểu đúng và rõ ràng về sự tà trái hoang đường trong pháp nghĩa của Mật tông, để sớm quay về với chính đạo.

Đời trước khi tôi còn làm Pháp vương trong phái Giác Nãng, tuy cũng từng truyền bá Thời luân Kim Cương, nhưng đó chỉ là sự yểm hộ (làm bình phong) cho việc hoằng truyền pháp Tha Không kiến Như Lai Tạng. Đó là cách làm bất đắc dĩ do quan sát tình thế thời cuộc lúc đó, chứ thực chất là lấy việc hoằng truyền pháp Thức thứ tám Như Lai Tạng của Trung quán Tha Không kiến làm chính, bề ngoài thì giống như Mật tông, bên trong thì ngầm bài xích Song thân pháp của các đại phái Mật tông, cho nên không chịu thực tu pháp (song thân) đó. Nhưng rồi ngày tháng dần dà, Mật tông cũng biết được hành động và mục đích của chúng tôi, cho nên Hoàng giáo không thể chấp nhận, đã dùng thế lực chính trị mượn tay phái Tát Già và Đạt Bố để tiêu diệt pháp của chúng tôi.

Ngày nay thời cuộc đã thay đổi, thế lực chính trị của Mật tông Tây Tạng đã suy yếu, người Tạng không nên tiếp tục mê tín vào pháp của Mật tông nữa, không nên tiếp tục chấp nhận cái tục lệ cũ chính giáo hợp nhất nữa, mà nên tùy thuận theo trào lưu của thời đại, chuyển sang quan niệm “chính giáo phân ly”mà Phật đã nói để đối xử với “chính phủ” lưu vong của Tây Tạng, đối xử với Đạt Lai Lạt Ma. Cần phải đứng từ bản chất pháp nghĩa của Mật tông để quyết định liệu có nên tiếp tục tùy thuận theo Mật tông để tu học Phật pháp, có nên tiếp tục tôn sùng Đạt Lai hoằng truyền Mật pháp hay không? Xem xét liệu có nên tiếp tục tin vào những lời khai thị về “Phật pháp” của Đạt Lai nữa hay không, có nên quay trở về với kinh điển Tam thừa của Hiển giáo và từ bỏ ngoại đạo pháp trong các Mật tục của Tây Mật hay không? Bởi vậy, các thày phái Giác Nãng ngày nay không nên tiếp tục truyền bá pháp tu Thời luân Kim Cương nữa, vì thời nay không còn cần Thời luân Kim Cương làm bức bình phong yểm hộ, có thể trực tiếp hoằng truyền pháp Như Lai Tạng Tha Không kiến rồi. Nên sửa đổi đường lối, chuyên tâm truyền pháp Như Lai Tạng của “Trung quán Tha Không kiến” đi.

Chỉ có điều pháp Như Lai Tạng “Trung quán Tha Không kiến” của phái Giác Nãng Ba trải qua sự thoán cải nhiều đời kể từ thời Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm của Hoàng giáo, hiểu sai pháp nghĩa, dùng quan điểm sau khi đã hiểu lầm của Hoàng giáo để sửa đổi, đến nay muốn tìm lại pháp Như Lai Tạng “Trung quán Tha Không kiến” chính gốc của phái Giác Nãng thì đã là chuyện khó khăn lắm rồi.

Về pháp tu của Thời luân Kim Cương, xin được lược thuật như sau:

“Tuy rằng giáo tài dưới đây chúng ta đã học qua rồi, hơn nữa cũng đã rất quen thuộc rồi, nhưng nghe lại lần nữa vẫn có pháp ích. Những nội dung này sẽ ghi dấu ấn thêm trong tâm khi chúng ta tiếp tục tu hành. 1 và 2 vì trong “tập cá biệt” (Biệt nhiếp chi) là tu quán Bản Tôn không sắc ôm Phật Mẫu hiện ra trên cửa mở trước trán ở Trung mạch, còn “ổn định cá biệt” (Tĩnh lự chi) là tu tăng trưởng độ ổn định. Hai chi nói trên trong Lục chi có thể khiến cho các luồng khí hoạt động khác nhau thích hợp dùng để tu pháp. 3 giai đoạn thứ ba là: Sức sống bị tắc ở hai mạch trái phải, khiến cho khí an trụ ở Trung mạch, cho nên nội dung chủ yếu của “Du già sinh mệnh lực chi” (Trung thiện chi) là phải dẫn đạo hạ trừ khí và mệnh khí đi với nhau. Pháp tu này chính là Kim Cương tụng (Ông A Hồng) và Bình khí. Phần trước đã nhắc đến hai loại pháp tu này rồi. 4 giai đoạn thứ tư là “Nhận trì chi”, sau khi anh có thể dẫn khí vào Trung mạch, đồng thời khiến khí có thể an trú vài phần ở Trung mạch, thì tu “Nhận trì chi”. Nội dung tu ở Nhận trì chi là duy trì khí ổn định ở chính giữa Trung mạch – khiến khí được an trú ở đó một cách cực kỳ ổn định. 5 Chi thứ năm là “Tùy niệm chi”, hành giả giao hợp với một loại Minh Phi trong số ba loại thể tính Minh Phi, cách xưng hô nghiêm cẩn (đối với Minh Phi) là “(Sự nghiệp) Thủ ấn”. Sự nghiệp Thủ ấn là người thực sự đang còn sống, do nghiệp duyên nhiều đời của hành giả chiêu cảm mà đến. Trí tuệ Thủ ấn chỉ là hình ảnh được hành giả quán tưởng ra từ trong tâm – giao hợp với Minh Phi trong quán tưởng[9]. Thủ ấn vĩ đại, Minh Phi trong Thời luân Kim Cương là Na Thác Do Mỗ, cơ thể của người là Không Sắc. Hành giả hạ căn thì giao hợp với Minh Phi thực thể[10], hành giả trung căn thì giao hợp với Trí tuệ Thủ ấn, còn hành giả thượng căn thì giao hợp với Thủ ấn vĩ đại Na Thác Do Mỗ (chủ trương này trái ngược với chủ trương “giao hợp với Minh Phi thực thể là thù thắng” của Liên Hoa Sinh và Tông Khách Ba).

Hành giả tu Tùy niệm chi thực hành giao hợp với ba loại Minh Phi kể trên, bạch Bồ Đề ở Đỉnh luân sẽ tan chảy xuống, giáng hạ đến đầu chót của quy đầu, thì được nâng chiết tại đây. Chính là như thế, hành giả sẽ trải nghiệm được đại lạc bất biến. Thế nhưng nếu anh tu Sự nghiệp Thủ ấn mà không phải là tu Trí tuệ Thủ ấn, nhất định anh phải có đủ các điều kiện sau đây: a. Trước hết phải điều luyện Phổ thông đạo; b. Phải chấp nhận quán đỉnh viên mãn; c. Nhất định phải giữ gìn lời thề và giới luật; d. Thể ngộ tinh thần của hai bên nam nữ phải thống nhất. Thể ngộ của bên này không cần phải đến cao hơn thể ngộ của bên kia. Ví dụ: Nếu nam hành giả chứng được Tâm giải thoát trong Viên mãn thứ đệ, vậy thì Minh Phi của anh ta cũng phải chứng được Tâm giải thoát thì mới thỏa đáng. Khi chứng ngộ của hai bên tương đương nhau rồi, thì tu cái Song thân pháp này, nam hành giả có thể làm tăng trưởng chứng ngộ của nữ hành giả, nữ hành giả cũng có thể làm tăng trưởng chứng ngộ của nam hành giả, hai bên đều có thể nhanh chóng thành Phật. Anh nhất định phải hiểu rõ mục đích của pháp môn song tu này, cũng có nghĩa là nam nữ giao hợp. Đây là pháp môn rất thâm sâu được truyền từ Kim Cương Trì. Mật Lặc Nhật Ba từng nêu ra trọng điểm thế này: “Khi song vận, anh phải quán tu dùng mạch, khí, Minh điểm. Hành giả cần phải cộng tu với Sự nghiệp Thủ ấn (người nữ hoặc Dũng Phụ ở nhân gian) vào thời cơ thích hợp, thế nhưng anh buộc phải có đầy đủ các loại điều kiện. Nếu anh không hội tụ đầy đủ các điều kiện mà cố tình tiến tu, thì sẽ bị đọa vào địa ngục”. Nghe nói quả báo cố tình lạm dụng song tu này là hư không vẫn còn mà không có ngày ra (khỏi địa ngục). Tùy niệm chi ở trên đã thuyết minh rất nhiều rồi, trên thực tế, ta có thể dành thời gian rất nhiều ngày để giảng giải phân tích chi tiết, bởi vì nội dung của nó quả thực rất rộng lớn. Một phương diện của pháp tu này là chú trọng đến Phật Mẫu Na Thác Do Mỗ trong Thời luân Kim Cương: Dựa vào phương pháp này khiến hành giả trải nghiệm được Câu sinh đại lạc và sinh khởi Chuyết hỏa; Chuyết hỏa lại làm tan chảy bạch Bồ Đề trên Đỉnh luân, sau đó bạch Bồ Đề lại chảy đến các luân khác. Chính ở tại các luân đó, hành giả trải nghiệm được Tứ hỷ: Hỷ, Thắng hỷ, Siêu hỷ, Câu sinh hỷ.

Trên đây là mô tả về năm chi đầu. Khi năm chi đầu này tu đủ lượng, hành giả có thể thành tựu Tam ma địa chi – Chi thứ sáu Du già (yoga) trong Lục chi du già của Thời luân Kim Cương.

6. Sự viên dung chuyên nhất của Không tính của vạn tượng và tâm, là thể ngộ được Không tính. Đó chính là chi thứ sáu của Thời luân – Tam ma địa chi. Muốn hiểu rõ được Tam ma địa chi, còn có phương pháp thứ hai: Tất thảy mọi sự viên dung của Không tính của vạn tượng đều hiển hiện bằng thân Bản Tôn của Phật Mẫu Na Thác Do Mỗ. Bản tính của Phật Mẫu chính là trí tuệ, còn đại lạc vô thượng bất biến thì hiển hiện bằng thân Bản Tôn của Thời luân Kim Cương. Cho nên, sự viên dung Không Trí được tượng trưng bởi Phật Mẫu và tâm đại lạc vô thượng bất biến thì được đại diện bởi Thời luân Kim Cương, cũng được gọi là Thời luân Tam ma địa chi. Anh nhất định phải ghi nhớ trong lòng: Việc giao hợp giữa Bản Tôn (và) Phật Mẫu không giống như quan hệ tình dục ở nơi thế tục. Nó là sự kết hợp tượng trưng cho Trí tuệ và Phương tiện. Thời luân Kim Cương là đại diện cho Phương tiện, còn Phật Mẫu Na Thác Do Mỗ đại diện cho Trí tuệ. Nhờ sự giao hợp giữa hành giả và một trong ba loại Minh Phi mà sinh ra đại lạc bất biến, sau đó đại lạc tăng trưởng vô tận. Trên đây là giới thiệu vắn tắt về Lục chi du già trong Thời luân, thuyết minh đã hết...” (74-220~222)

Thế nhưng loại pháp tu hành như thế, về bản chất vẫn chỉ là pháp tu của phái Tính Lực ngoại đạo. Ngay trong Bà La Môn giáo cũng có rất nhiều giáo phái phản đối pháp tu như vậy, cho rằng pháp tu như thế mãi mãi không thể nào tương ứng với giải thoát được, ngược lại còn bị dâm dục trói buộc chặt hơn nữa. Các thày Mật tông còn không bằng một số ngoại đạo trong Bà La Môn giáo, không biết rằng pháp tu như vậy nhất định sẽ đọa vào trong luân hồi của Dục giới. Hơn nữa, vì chuyện “tà dâm” và “loạn luân”, chắc chắn sẽ đọa vào ma đạo, lâu dần nhất định sẽ đọa vào địa ngục. Còn nếu vì bảo vệ tà pháp Mật giáo mà phỉ báng pháp nghĩa chân chính của Phật giáo, phỉ báng cả bậc hiền thánh đã chứng ngộ thực sự thì sau khi xả thọ, nhất định sẽ rơi ngay xuống địa ngục, chịu khổ không ngừng nghỉ, trường kiếp khó ra. Cho nên, tất cả các hành giả Mật tông đều phải có cái nhìn chính kiến, đừng theo tà kiến Mật tông mà đi vào tà đạo, nhằm tránh trở thành quyến thuộc của ma quỷ trong vô lượng kiếp tương lai, khó mà thoát nổi.

Tông Khách Ba cho rằng khi tu trì Song thân pháp mà chứng được Lạc Không bất nhị thì nên tiến tu quán tưởng sâu hơn: “...sau đó trong tế tướng, tu đủ pháp Mạn đà la, luận thứ 450 viết: ‘Lại tu từ tế tướng, trụ ở đầu mũi Minh Phi (quán tưởng tự tâm trụ ở âm vật dưới hạ thể của Minh Phi), tự chứng Năng Nhân luân’. Nghĩa là quán tưởng ở đầu mũi Minh Phi có cờ tiêu của Chủ tôn to cỡ hạt mạch, trong đó có đầy đủ pháp Mạn đà la. Tường Mễ Kim Cương nói tùy theo bất cứ đầu mũi chỗ bí mật nào (đầu chót ở hạ thể, tức là âm vật hoặc quy đầu) của phụ mẫu. Luận sư Dược Túc Kim Cương thì nói tu Mạn đà la ở trong cờ tiêu trong bình Ma ni Kim Cương. Nếu tâm trầm mặc thì nên tu ở đầu mũi trên, đó là truyền dạy vậy. Nếu tu trong cờ tiêu trong liên hoa (hạ thể) của Minh Phi, tâm sinh trầm mặc, thì quán tưởng một bộ Kim Cương trong năm bộ Kim Cương của mình biến thành hình móc câu, móc đến đầu mũi của Minh Phi mà tu. Cho nên, chỗ tu không cố định. Trong đó, luận sư Dược Túc nói chủng tử tự tâm phóng quang, câu chiêu đến chư Phật, tan chảy thành Bồ Đề tâm giáng hạ xuống chỗ bí mật (hạ thể) biến thành cờ tiêu, rồi tu ở trong đó. Cuốn “Giáo Thụ Huệ luận” cũng nói đến nghĩa lý đó và cả việc tế điểm (Minh điểm nhỏ) ở giữa rốn giáng hạ xuống chỗ bí mật (hạ thể) như trên đã nói, rồi tu Mạn đà la trong đó. Hai chỗ du già tế tướng đó, ý nói Kim Cương (hạ thể của người nam) và Liên hoa (hạ thể của người nữ), đầu mũi (quy đầu hoặc âm vật), theo một cái nào cũng được. Minh Cự luận văn tuy nói rõ tu ở tế điểm, rồi đến tu trong hoa sen của Minh Phi (hạ thể người nữ), nhưng hai chỗ bí mật đó (hạ thể hai người) giống nhau” (21-482). Nội dung tu quán tế tướng như trên là do Tông Khách Ba chí tôn của Hoàng giáo nói ra đó.

Thứ nữa là phải dựa vào quán tưởng ngũ phương Phật, phối hợp với Vô thượng yoga lần lượt quán tưởng, biến ngũ đại Kim Cương thành Phật thân: “Điều tối quan trọng trong Mật pháp là ngũ phương Phật. Muốn tu ngũ phương Phật thành tức thân thành Phật ư, thì trước hết phải biến thành ngũ đại Kim Cương. Cho nên tôi giảng tu Thắng lạc Kim Cương, phải phối hợp với ngũ đại Kim Cương, phân phối ở ngũ luân mà tu”. (32-246)

Thế nhưng đạo thành Phật thực tế không liên quan gì đến ngũ phương Phật. Người nào muốn dựa vào tu hành quán tưởng ngũ phương Phật để thành tựu Phật đạo cứu cánh, thực tế chỉ là pháp tu do các thày Mật tông xưa nay tự ý bày đặt ra, không phải là Phật pháp thực sự. Vì sao vậy? Vì Thế Tôn chưa từng khai thị như vậy bao giờ, còn nếu người nào quán tu như thế, thì hoàn toàn không thể nào tương ứng với Tổng tướng trí, Biệt tướng trí, Nhất thiết Chủng trí của Bát Nhã được. Mà đạo thành Phật thực ra nằm ở chỗ trí tuệ Bát Nhã, chứ tuyệt đối không nằm ở việc quán tu ngũ phương Phật, tuyệt đối không thể nào thành tựu nhờ vào việc quán tưởng ngũ phương Phật biến thành ngũ Kim Cương, vì ngũ Kim Cương chỉ là Nội tướng phần do tự tâm mình hiển hiện ra; sự quán tưởng ngũ Kim Cương không liên quan gì đến thể nghiệm tu chứng bản thể tự tâm của người tu hành.

Lại nữa, ngũ đại Kim Cương phối trí với ngũ luân cũng là hư vọng tưởng của hành giả Mật tông. Từ ngũ luân mà tăng cường quán tu, kỳ thực không thể nào biến hiện sinh ra ngũ đại Kim Cương được vì ngũ phương Phật do quán tưởng mà thành thực tế cũng chỉ là Nội tướng phần của chính hành giả mà thôi, không thể nào đem ngũ phương Phật quán tưởng (tưởng tượng) biến thành ngũ phương Phật thật được. Ngũ phương Phật vốn dĩ chỉ là thứ do tâm hành giả nghĩ ra chứ không có thực, thì sau khi đem ngũ phương Phật do quán tưởng mà thành đó lại quán tiếp biến thành ngũ đại Kim Cương cũng chỉ là sự “tưởng tượng” của Tâm giác tri chính mình mà thôi. Cho nên, người nào muốn quán tưởng ngũ phương Phật biến thành ngũ đại Kim Cương, qua đó để thành tựu ngũ Kim Cương thì chỉ là cái tưởng hư vọng, tuyệt đối không có thực nghĩa gì trong tu chứng Phật pháp cả.

Giả sử như ngũ phương Phật, ngũ đại Kim Cương do quán tưởng mà thành kia quả thực có Ngoại tướng phần để cho tất cả mọi người quán nhìn thấy thì cũng chẳng liên quan gì đến Phật pháp, vì thành Phật không phải đạt được nhờ vào “cái tướng quán tưởng”, mà thành Phật được là nhờ vào việc có trí tuệ Bát Nhã. Mà trí tuệ Bát Nhã thì phải dựa vào việc chứng được Thức thứ tám, rồi thể nghiệm thể tính Thức thứ tám pháp căn bản của chư pháp pháp giới, nhờ đó mà sinh ra trí tuệ Thực Tướng, mới gọi là Bát Nhã trí. Cho nên, pháp quán tu mà Mật tông truyền dạy kỳ thực không thể nào giúp người ta thành Phật được, ngay cả trí tuệ Bát Nhã ở Kiến đạo vị thô thiển nhất họ cũng không thể chứng được. Vì thế, hành giả Mật tông phải có trí tuệ để mà lựa chọn, biết mình phải đi theo hướng nào.

Thời luân Kim Cương cũng nói tu pháp này có thể thành Phật cứu cánh, chứ không như cư sĩ Trần Lý An nói “trong Mật tông thực tế không có Song thân pháp nam nữ hợp tu, cũng chưa từng nói đến tức thân thành Phật”. Nay nêu ra làm chứng như sau:

“Dưới đây là cương yếu nội dung khóa trình mà tôi đã truyền thụ trong mấy tuần nay: Đầu tiên là cơ bản [I A và B], tiếp đến là thảo luận lời thề, giới luật [II A và B], sau đó là đạo chính tu: Sinh khởi thứ đệ [III A] và Viên mãn thứ đệ [III B]. Nay tôi muốn nói rõ về “Hiển hiện quả đức”: Pháp môn Thời luân thành Chính giác. Trước hết là điều luyện của Phổ thông đạo: Trưởng dưỡng tâm xuất ly, tâm Bồ Đề, chính kiến Trung Quán; Sau đó hành giải phải chấp nhận quán đỉnh; Sau đó hành giả tu Sinh khởi thứ đệ. Trước hết là thứ đệ thô (Chú thích gốc: du già – yoga), sau đó là thứ đệ tế (Chú thích gốc: du già). Sau khi tu Sinh khởi thứ đệ đến thành thục, thì hành giả tu tiếp Viên mãn thứ đệ - nội dung là Lục chi du già.

Trong pháp tu của Viên mãn thứ đệ, hành giả phải chuyên chú vào sáu luân: Sinh thực luân, Tề luân...Trong các quá trình này, Bồ Đề tâm không được phép bắn mất (Chú thích gốc: chảy rớt mất). Kết quả của nó chính là khí hoạt động và vật chất cấu tạo nên thân thể dần dần biến mất, cuối cùng thì hồng Bồ Đề và bạch Bồ Đề cũng biến mất. Kết quả của pháp tu này, hành giả chứng được thân Không Sắc. Loại thân thể này là giống với màu sắc của cầu vồng. Kim Cương Phật đã vô cùng nhân từ tiết lộ cho chúng sinh hữu tình về loại tu hành Mật tục rất thâm sâu này. Nó quả thực như là thuốc tễ điểm thạch thành kim vậy, có thể biến đồng và các kim loại rẻ tiền khác chuyển biến thành vàng quý. Dùng pháp tu như thế này, hành giả dựa vào các loại linh kiện (Chú thích gốc: thành phần) vật chất điều hóa thân thể, có thể đem sắc thân vật chất thô nặng, bị bệnh tật, đau khổ làm chủ và “Bản sơ tâm” cùng với “Bản sơ thân” chuyển hóa trở thành (Chú thích gốc: bản chất của) Bản Tôn, Phật Mẫu. Trong sắc thân vật chất này, khí hoạt động có thể khiến sinh ra sự biến dạng về tâm lý, như phẫn nộ, chấp trước...

Trong quá trình chuyển hóa này, các khí hoạt động này đều sẽ tiêu tan. Hiểu được ý nghĩa của “Bản sơ tâm” và “Bản sơ thân” là rất quan trọng. Bản sơ tâm (Chú thích gốc: hoặc Thức lưu) là một loại tâm nhỏ bé nhất. Loại tâm này luôn luôn đi cùng với chúng ta. Bản sơ thân là mệnh khí nhỏ bé nhất, nó đi theo Bản sơ tâm, tương tự thế, nó cũng luôn đi cùng chúng ta. Đó chính là thứ mà chuyển hóa thành Bản Tôn. Thân thể của Bản Tôn chỉ có tâm và khí (Chú thích gốc: Tâm hoặc tác thức). Để giúp anh hiểu được đạo lý này, mời anh hãy thử nghĩ rằng có một người luôn sống ở Seattle, anh có thể nói họ giống như thổ dân, hoặc là chủ nhân của Seattle. Ngoài ra lại có người chỉ là đến Seattle, giống như là khách qua đường vậy. Anh có thể nói họ là cư dân ngẫu nhiên của Seattle. Tương tự, chúng ta mỗi người đều có tâm thức và mệnh khí luôn ở cùng chúng ta, chúng chính là bản sơ, là nguyên gốc vốn dĩ. Đại đa số thành phần của thân thể chúng ta, như cơ quan cảm giác, phần lớn các nhân tố cấu thành nên tâm thức rồi thân thô vân vân, chẳng qua chỉ là sự tụ hợp tạm thời trong quá trình sinh mệnh ngắn ngủi mà thôi. Nhưng như trên đã nói, những thứ này sẽ rơi rụng trong quá trình tử vong, các loại cảm quan khác nhau sẽ tiềm tàng. Sau thời kỳ đen tối của quá trình tử vong, Bản sơ tâm và Bản sơ khí vi tế nhất sẽ hiển hiện. Chính cái tâm khí nhỏ bé nhất này sẽ đi từ đời này sang đời khác, chứ không phải là các Uẩn khác. Khi đạt đến cảnh giới cao nhất của đạo Mật tông, anh sẽ chứng được thân Không Sắc của Bản Tôn, Phật Mẫu. Đồng thời chứng được cái bản chất của tất cả vạn tượng khi trực tiếp thể ngộ tại chỗ là Tâm thức đại lạc bất biến. Như thế là hành giả chứng được Chính giác viên mãn, chứng được “Thất chi viên dung” hoặc cách nói chính thức hơn là “Nụ hôn thất chi”. Đó là chỉ sự giao hợp giữa Bản Tôn và Phật Mẫu. Ngoài ra, hành giả cũng chứng được tứ trọng thân của Phật Đà là Hóa thân, Báo thân, Trí tuệ Pháp thân và Bản tính Pháp thân. Thành Phật rồi, hành giả sẽ có sức mạnh vô hạn để lợi ích chúng sinh. Trong một sát na, hành giả có thể hóa thân ra vô số thế giới xung quanh để cứu độ chúng sinh”. (74-226)

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg