The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận -2

 Về khẩu yếu[4]: Niệm âm Hồng dài, xuất ra không ngừng cùng khí, tại mỗi luân “thân yếu, khí yếu” quán tưởng tu từng cái. Nếu khi tu trì thấy khó quá, thì tại mỗi luân đồng thời tu cả tam yếu. Sau này nên ngồi độc một mình, tu đề điểm quyền pháp (tu quyền pháp “nâng chiết Minh điểm”), thì có thể tọa tùy theo an lạc, nắm tay quyền đặt trước mặt trên ngọa cụ (chỗ nằm), tu bên trong trụ khí ấm, men lên đỉnh chỗ thượng sư đại sĩ Liên Hoa Sinh, thực hành quán tưởng lay động trong hư không. Sau khi trì khí ấm dài, phát hết sạch khí ra ngoài, rồi hít đoản khí vào, theo lực đẩy phóng ra. Làm như thế bốn, năm lần, thân phần tự nhiên sẽ rung động an lạc. Đây gọi là pháp tiếp dẫn tán bố tự nhiên, là khí yếu vô công dụng.

Cuối cùng hồi hướng, phát tâm quảng đại, hết sức tu nhiều Bình khí, tâm định ở trên thể tính bản lai. Cái này tương hợp với mật tu Không Hành của Ngũ bộ. Nó tương thuận với Sinh khởi thứ đệ và Viên mãn thứ đệ, Đạo thứ đệ dựa vào thủ ấn Minh mẫu để khiến cho Dũng Phụ Dũng mẫu hoan hỷ….Cống Cát khai thị cho Không Hành Mẫu và thiên nữ Nhân Thân chí tôn rằng: ‘Thứ nhất nhìn sắc, thứ hai nghe thanh, thứ ba ngửi hương, thứ tư chạm thịt, thứ năm lĩnh nạp mùi thù thắng (dùng miệng nếm vị dâm dịch), thứ sáu ôm nhau, thứ bảy hôn miệng, thứ tám nhập liên. Trước khi nhập liên cung, anh ta vốn cũng phải tiếp xúc với tám cánh hoa sen trước đã, cùng để cúng dường tám vị Không Hành Mẫu; tiếp đến là chạm đến bên ngoài hậu môn của người nữ để cúng dường Thủ phương mẫu. Sau khi làm như thế mới được nhập vào liên cung, là pháp hành chậm. Người nam dễ xuất tinh, người nữ thì không dễ sinh lạc, cho nên cần phải tiến hành chầm chậm, một là tránh xuất tinh sớm, hai là có thể đợi cơn khoái lạc của người nữ đến’.

Lại xét: Pháp nâng chiết lên trên có sáu nhánh: Một là bụng dán sát lưng, hai là thót nâng hậu môn, ba là cổ áp hầu kết, bốn là lưỡi đẩy ngạc trên, năm là mắt đảo hướng lên trên, sáu là thượng khí xuất ra ngoài, hoặc lấy tay ấn huyệt Hội Âm. Sáu pháp này phải thực hiện trước khi xuất tinh sớm, thì nhất định sẽ không xuất trộm… Người có tiến bộ thì con đường chậm tiến trên đây phối với Ngũ trần. Sau khi tiếp xúc nhau, lại có Ngũ trần bí mật. Người nữ sau quá trình dài (bên nữ sau khi trải qua quá trình giao hợp lâu dài), sắc mặt chuyển hồng, càng thêm xinh đẹp, tiếng cười kinh ngạc, âm thanh chuyển nhã nhặn, mà liên cung càng cọ xát thì càng ẩm ướt phát ra tiếng kêu.

Cũng có người lại quá khô, thì có thể bôi bằng quả chuối theo cuốn sách “Quang Minh pháp tạng” của ta, thì nhất định sẽ phát ra tiếng. Trong liên cung có mùi thơm như xạ hương, đó là của quý hiếm. Nhưng người có chủng tính tốt cũng có mùi lạ, không nhất định giống như người có mùi xạ hương. Sau khi tiếp xúc, lưỡi người nữ vốn dĩ có tân dịch (nước miếng). Lại đến khi liên cung có nước chảy ra, cũng có thể ăn nó. Ngũ trần trong sự tiếp xúc cọ sát đó càng thêm thâm lạc, không thể không phối hợp với Không tính mà làm. Cho nên, nhất định phải từ từ mà hành sự, thì thời gian thong dong, dễ tự phản tỉnh.

Như khi quán sắc, sau khi lạc sinh khởi, Không tính có còn tồn tại hay không? Tất tự phản tỉnh. Nếu như nó không còn tồn tại, tất phải phối hợp. Như thế thì Sắc Không bất nhị, Thanh Không bất nhị, Hương Không bất nhị, Vị Không bất nhị, Xúc Không bất nhị, sau đó mới có thể hoàn thành “Lạc Không bất nhị”. Đó chính là mục tiêu của Sự nghiệp thủ ấn, không thể không biết đấy!

Lại nữa, 64 pháp song già,…Trong 64 pháp này, phần cơ bản có 8 pháp, mỗi pháp lại có 8 pháp nữa, nên mới thành số (64) này. Một là Cận hiệp (đùa giỡn sát), hai là Vẫn hợp (hôn hít), ba là Chỉ lộng (đùa nghịch bằng tay), bốn là Xỉ ngoạn (chơi bằng răng), năm là Liên hý (nghịch đùa hoa sen), sáu là Thanh vận (âm thanh), bảy là Nhục cảm (cảm giác xác thịt), tám là Điên loan (điên loan đảo phượng).

Đầu tiên là nói về Cận hiệp: Thứ nhất là Thiết ngọc (trộm ngọc), lén nhìn mặt người nữ, cùng tiến sát gần nhau, vuốt ve ngực cô ấy; Hai là Thôi tựu (tiến sát gần hơn nữa), dùng lời nói tỉ tê để gợi tình; Ba là Tình khiên (dắt tình), áp sát vuốt ve, môi lưỡi quấn nhau; Bốn là Ý nhạ (gợi ý), tay ôm cổ người nữ, hôn điên cuồng phát ra âm thanh (chụt chụt); Năm là Đằng triền (quấn quýt), một chân dẫm lên mu bàn chân người nữ, một chân quặp hông người nữ; Sáu là Trích anh (hái anh đào), tay nâng cổ người nữ lên mà hít hà (ra thành tiếng) đôi môi cô ấy; Bảy là Khế nhập (sáp vào), cùng ngủ dán bụng, chân quặp ôm eo; Tám là Thủy nhũ, chùy nhập liên cung (đút dương vật vào âm hộ).

Về Vẫn hợp: Tức là hôn vào tám chỗ miệng, hầu, vú, sườn, eo, mũi, xương gò má, hoa sen (âm hộ).

Về Chỉ lộng: Dùng tay vẽ nhẹ lên các chỗ môi, ngực, đủ để hiện lên vết hằn mảnh trên da thịt, cái đó gọi là Ngẫu ti[5]. Móng tay hơi ấn sâu, dí nơi ngực, hầu, khiến da hiện lên những vằn cong, đó gọi là Bán nguyệt. Khi người nữ cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa mà dúm mình thì dùng cả năm ngón tay ấn đều, đó gọi là Đàn thành. Tại chỗ đuôi lỗ rốn, vẽ những đường vằn dài, gọi là Triền miên. Lại vẽ những đường xiên ở các chỗ trước đây, gọi là Khinh sa. Dùng chùy thập tự vẽ ở gò ngực và dưới bầu vú, gọi là Yết ma. Dùng năm đầu móng tay ấn xung quanh vú gọi là Mai hoa. Vẽ hình hoa sen quanh vú gọi là Tiểu liên.

Về Xỉ ngoạn: Lòng tham sắc sinh khởi (sinh dục vọng), sắc mặt rất hồng hào, đó gọi là Xuân sắc; Lấy răng ấn nhẹ lên môi người nữ, gọi là Điểm giáng; Dùng môi và răng khép lại mà cắn lên hai mép người nữ, gọi là San hô; Làm vẻ nhe nanh, dùng răng cửa cắn nhau gọi là Minh điểm; Lấy răng ấn liền dãy ở các chỗ eo, vai, hầu, giữa hai hàng lông mày, gọi là Châu man; Lấy răng ấn tản mạn tùy ý, không chỗ cố định, như mây trên tầng không, gọi là Xán vân; Lấy răng ấn các chỗ dưới sườn, gọi là Liên châu; Ấn răng vào những chỗ dễ gây buồn ngứa như dưới tai, khiến cho người nữ buồn rúm người, gọi là Phong tao.

Về Liên hý: Bụng dán sát thân người nữ, rà đầu chùy (dương vật) nghịch lên các cánh hoa sen bên ngoài (mép ngoài âm hộ), gọi là Thổ lãng (nổi bọt sóng); Tay cầm gốc chùy, để nửa đầu chày nhập vào Liên cung (đút nửa thân dương vật vào âm đạo), gọi là Khinh khiêu (khiêu khích nhẹ); Người nữ duỗi chân nằm ngửa, nam chùy như cắm chùy Phổ Ba[6], chọc thẳng xuống, gọi là Thâm khiết (chọc sâu); Người nữ hoan hỉ hơi rướn người lên, rồi để cho (chùy) thâm nhập bất động (vào sâu nằm im), gọi là Bán tựu (thành tựu một nửa); Đột xuất đột nhập, vào ra liên tục, gọi là Đề tiếu (khóc cười); Vài lần nông một lần sâu, thay nhau mà thực hiện[7], gọi là Túy tửu (say rượu); Trên dưới cùng động đậy, nhúc nhích, gọi là Mặc khế (giao ước ngầm); Lần đầu thì đút vào từ từ một nửa, lần thứ hai đột nhiên cắm ngập chùy, gọi là Mãn nguyện.

Về Thanh vận: Như tiếng kêu khóc rấm rức (không ra tiếng), như than oán, như thở, như rên, như a-oa-đả, như oa-na-a-đả, như tiểu giải thoát, như a-oa-tước-oa (Chú thích gốc: tên gọi mấy tiếng kêu sau, thượng sư Cống Cát nói không biết là cái gì), lần lượt tựa như tiếng kêu của bồ câu, đỗ quyên, cáp-lý-đả, con cò, ong mật, ngỗng, xuân điểu (én), ba-oa-giá, đều là tiếng phát ra từ trong bụng.

Về Nhục cảm: Giống với hôn hít bên trên (Chú thích gốc: cùng vị trí), chủ yếu sử dụng nắm tay, lòng bàn tay, cùi chỏ, eo, mặt…Ví dụ, dùng tay mát xa mà phát ra 8 loại âm thanh kể trên, thì gọi là tham tướng, tất sinh Đại Lạc. Nếu như khí phát ra từ miệng quá lạnh thì ấn lâu.

Về Điên loan: Cơ thể người nam béo phì, người nữ không thể chịu được sức nặng đè xuống, thì phải đảo lộn vị trí mà làm. Người nữ thay vị trí làm như người nam, thực hiện như sau: Vắt ngựa chạy mau gọi là Bào (chạy); Cắm lâu rút chậm là Án (đè); Chân quấn lấy nhau, bụng người nữ như chuyển luân (bánh quay nghiêng nửa vành – nghiêng người qua lại) gọi là Triển (chuyển); Đùi người nữ quấn nhau, người nam hơi chuyển động từ dưới, gọi là Si (sàng); Người nam nghỉ ngơi gọi là Thản (bằng phẳng); Người nam bất động, người nữ từ từ làm, gọi là Thoi (suốt); Chân tay người nam duỗi thẳng gọi là Túy (say); Người nữ quay lưng về phía người nam mà ngồi, làm phía trên gọi là Kiều (yêu kiều). 64 thức này tùy ý mà làm, để nhập vào Không – Lạc.

Nói vắn tắt về khế nhập Không Lạc như trên, thực ra phải làm từ từ, vừa sinh Lạc, vừa khế nhập Không. Nếu như mới bắt đầu thực hiện “Cận hiệp” mà không thể đạt Không thì lập tức dừng lại, sám hối, sau đó lại thử tiếp. Nếu như thực hiện cứ được hai mà có một thứ tự bất Không thì tất cả các thứ tự sau đều phải dừng lại. Bắt buộc phải là vừa sinh Lạc, vừa thành Không thì mới có thể từng bước tiến lên, lần lượt tăng cường cái Lạc, theo đó mà khế hợp với Không. Mục đích của các bản sách sao chỉ chép giữ lại phương pháp đắc Lạc, còn về sinh Không trên Lạc, tu Lạc trên Không, là đạo mà người học cần biết thì lại ít được dạy dỗ. Ta không thể không bổ sung cho Cổ Đức. Nên biết là thà rằng không Lạc chứ không thể không đắc Không. Đắc Lạc thì dễ rơi vào phàm phu, đắc Không thì tất chứng Bồ Đề, không thể không cẩn thận thực hành.

Còn về việc trong sách trích dẫn nhiều về “mạch dược vật bí mật của mỹ nữ”, ta đã từng hầu cận Nhân Ba Thiết (thượng sư) đến tiệm thuốc lớn, xét kỹ từng vị, mới biết được các vị thuốc tiếng Trung và vị thuốc tiếng Tạng sản xuất ở Bắc Bình, có vị thuốc cùng loại mà khác tên. Các cuốn sách sao chép được dịch đa phần đều có sai sót, không thể áp dụng được, dùng tất vô hiệu. Cho nên muốn để mạch tương hợp với mạch, cần phải áp dụng các tư thế khác nhau, lần lượt thử nghiệm. Mạch người nữ vừa ngắn, hơn nữa vị trí khác nhau tùy người, nên bắt buộc phải để (phần chót Trung mạch – nam nữ âm) của hai bên tương giao, không được chia lìa, như kiểu của bọn chó ấy (như trạng thái hai con chó giao hợp xong, không thể rút ra được vậy. Chi tiết xem phụ chú phần cuối của đoạn văn trích dẫn này). Cái cảm nhận này không cần thật sự không chia lìa, mà là để đảm bảo hai mạch đã chạm tiếp vào nhau, đó là kinh nghiệm thực tu của ta và vợ ta.

Thế nhưng nếu đổi người nữ khác mà thực hành thì lại không giống nhau. Thầy Công từng cho phép một người nữ khác cùng tu với ta, thì thấy mạch của cô ấy và vợ ta khác nhau, qua đó có thể hiểu được. Khi mạch của cô ây đã ngậm nhau (tiếp xúc), bên nữ mới dễ chảy hồng Bồ Đề ra, đó cũng là một trong những cách thức khảo nghiệm. Các cuốn sách khác hoặc không có nói đến tư thế, hoặc nếu như có nói thì cũng ít nói rõ (vấn đề này). Tư thế nào đối với loại người nữ nào mới dễ dẫn chảy ra, tất cả đều dựa vào bản thân hành giả mỗi lẫn tu song vận, đổi tư thế để sao cho vừa khéo, đồng thời cũng cần phải trao đổi giao hẹn trước với người nữ: lúc nào, chỗ nào thì đắc Lạc, cần lập tức tán thán, để hành giả thăm dò biết được phương hướng của mình, đồng thời xác định tư thế đó mới dễ thực hành.

Hành giả tất phải hiểu rõ: Phàm đã vào lúc mạch ngậm nhau thì cái Lạc đó tất sẽ lớn, mà cũng dễ xuất tinh, cho nên phải thận trọng nâng chiết lên. Trong cuốn “Hạ môn đại lạc dẫn đạo sao bản” có nói bốn thức sau: Một là nam ôm cổ nữ, nữ ôm eo nam, chùy lên xuống như thoi, mạch ở bên trái hoa mới xuất; Hai là nữ nằm ngửa, gối kê cao đầu, chân nữ gác thẳng lên vai mình, nam ôm từ dưới mà hành, mạch từ trên dưới mới xuất hiện. Ba là chân nữ gác lên khèo tay nam, nam ôm dưới eo nữ mà hành, mạch từ hai bên trái phải hoa sen mà ra; Bốn là chân nữ duỗi thẳng lên ngực nam, một chân nam cong bên eo nữ, một chân thẳng, tay ôm hạ bộ người nữ, mạch từ chính giữa xuất hiện.

Bốn người nữ này: Loại đầu tiên là giống Kim Cương, loại thứ hai là giống Liên Hoa, thứ ba là giống Thú, thứ tư là giống Voi. Bản thân ta thì cho rằng mỗi chủng loại người nữ đều có đặc sắc riêng, không nhất định có thể gặp được. Làm thế nào để có thể thám tìm mạch của người nữ đồng tu có duyên với mình, không thể chỉ giới hạn ở bốn loại tư thế này. Nó có thể là trái phải, có thể là trên dưới, không có chỉ định, cũng có vấn đề. Khi dò thám bằng tư thế “chùy liên cùng thuận, tám hướng đều theo”, cho đến khi có cảm giác ngậm nhau thì mới dừng. Các sách nói về thuật phòng the đều có hơn 30 loại tư thế khác nhau, gần đây còn có cả ảnh chụp, chẳng thà lấy ta và người đồng tu ra làm thực tế, mới có thể làm bằng. Cho nên mới nói tin tuyệt đối vào sách chẳng bằng không đọc sách vậy.

Lại có loại cao cấp hơn: Các cuốn sách sao chép bí mật cũng có nhiều câu chú bí mật, vị thuốc bí mật, bùa sớ bí mật để dẫn dụ Không Hành nữ. Ta không dám nói “không có linh nghiệm”, nhưng ta cho rằng các cách làm này vừa không dễ thực hiện, cũng chưa chắc đã hiệu nghiệm hoàn toàn. Cách tốt nhất là nhất định phải giữ gìn giới luật, để chiêu cảm “thần hộ pháp bảo vệ Mật pháp” đến dẫn dắt cho hành giả. Ta về mặt tư cách đạo đức đã từng thấy được sự hiệu nghiệm này. Người nữ được dẫn dắt đến cũng có quang, hơn nữa còn được thần hộ pháp thông báo: Không Hành đã đến. Không cần phải quan sát tướng gì hết, khi chưa gặp mặt thì đã nhìn thấy quang (ánh sáng) trước rồi. Còn sau khi gặp mặt, không cần phải dẫn dụ, tự nhiên kết hợp (giao hợp luôn). Khi người nữ ấy đi, không có bám víu hay bất cứ phiền phức thế tục nào khác. Đó chính là nhờ đạo giữ gìn bảo vệ của thần hộ pháp vậy.

Loại cao cấp hơn, là nhờ có thể tu Không Hành nữ mà được tương ứng, giữ gìn Minh điểm, có đủ Bồ Đề tâm. Người nữ thì đúng như lời thề của mình, tự đến cúng dường. Lúc tu tập với người đó, cảm ứng lớn nhất, hoặc là thấy nhật, nguyệt, hoặc trụ trong chính định, hoặc khế hợp với Đại ấn. Sau khi đi thì càng không có bất kỳ phiền phức thế tục nào hết. Vừa không cần phải dùng đến thuốc dẫn, cũng chẳng cần dùng tiền bạc, đồ ăn thức uống để dẫn dụ, đó là hiệu quả đặc biệt tự đến của Không Hành nữ này.

Loại tối thượng, có thể tu các loại quán tưởng Không Lạc bất nhị, Đại ấn minh thể tự nhiên hiện tiền, có đủ các loại sức mạnh sự nghiệp đại bi, có thể dẫn sinh công đức Bản Tôn thành tựu. Vừa là Bản Tôn, tự có Phật Mẫu. Khi chưa gặp người ấy thì sẽ có dự báo trước. Khi người ấy đến, gặp nhau thì như thể đã thân quen từ lâu. Khi thì thăm nhau đường xa, khi thì bỗng nhiên gặp mặt, lúc hành sự không chút chướng ngại, lúc nào cũng có Không Lạc. Sau khi hành sự, không ai phát hiện, mà cảm giác chứng ngộ từng bước tăng trưởng. Những điều này có được đều là nhờ bản thân hành giả giới luật đầy đủ, định lực thâm sâu, trí tuệ tăng trưởng và tất cả mọi công đức. Tóm lại, nhân quả không hoại, Minh điểm sung mãn, khí công đầy đủ, trí tuệ tương khế với Tứ hỷ Tứ không trong Mật pháp, tất sẽ có Không Hành nữ đến trợ giúp mình”. (34-279~303) Phụ chú: “Khi hai mạch nam nữ tương hàm, ngọc nữ lắc mạnh như chó cái, đại lạc dung hòa lăn trên giường, liên chùy dính chặt chẳng lìa chia”. (34-306)

Lại nữa, hành giả Mật tông nào muốn tu pháp này, trước hết còn phải thông đạt mạch khí Ngũ luân, thì sau đó mới có thể tu: “Cho nên muốn áp dụng đạo lý Song thân pháp, chính là phải dùng khí công mở mạch tầng ngoài của Mật luân, sau đó hành khí khắp nơi để mở mạch tầng ngoài Tâm luân. Khi mạch tầng ngoài của Tâm luân mở ra rồi, khí mới dễ vào trong Trung mạch. Sau đó, bên dưới dùng hỏa xung (Chú thích gốc: Chuyết hỏa), bên trên dùng thủy xung (Chú thích gốc: Trên Đỉnh luân nhỏ giọt Minh điểm). Như thế thì sẽ mở được từng tầng từng lớp Tâm luân rồi. Cho nên, mở Ngũ luân là phải mở từ Tâm luân trước. Nhưng tu thì phải bắt đầu tu từ Mật xứ (chỗ kín), cho nên tính quan trọng của tu song vận chính là ở chỗ này. Anh không tu song vận, thì mạch vòng ngoài của Mật xứ sẽ không dễ mở ra. Cho nên người ta đều nói cái tinh hoàn này là tổng tinh đó! Tất cả mọi tinh đều tổ chức ở chỗ này. Cần phải tu chỗ này hàng ngày, dùng sức mạnh Tam ma địa Không tính, dùng khí công, dùng song vận, từ từ mở nút chỗ này ra”. (32-235)

Nếu không tu cho thông đạt mạch khí Ngũ luân, thì trong quá trình hợp tu song thân, không thể đưa khí trụ ở đầu Ma ni để giữ cho không tiết lậu (bế tinh), cũng không thể duy trì lâu trạng thái cực khoái tình dục mà chắc chắn sẽ xuất tinh. Như thế thì sẽ không thể nào đạt được cảnh giới “lúc chính tu, lĩnh nạp dài lâu qua tám thời và hơn thế nữa” như Tông Khách Ba đã dạy, thì việc “làm thế nào để có thể duy trì được trí tuệ lớn và lâu nhất của lạc xúc” sẽ không thể nào sinh khởi được. Mà như thế thì không phải là người đắc Đại Lạc, thì vĩnh viễn không thể thành “Phật của Mật tông” được. Cho nên, người nào muốn tu Song thân pháp này, trước hết bắt buộc phải đạt được thành tựu tu hành Sinh khởi thứ đệ, thì sau mới có thể thụ quán đỉnh thứ tư và hợp tu Song thân pháp với người khác. Vì thế mới nói rằng:

“Mệnh nằm ở Tâm, giống như nhụy trong hoa sen. Người tu bề ngoài tâm thì kiên cố, nhưng bên trong thì ‘Tâm chứa tất thảy Phật’ không thể đi được. Phật được thỉnh đến, bên trong đều có, bị phần kiên cố giữ lại, mãi mãi không thể hiển lộ. Tục ngữ có câu rằng: ‘Không có lỗ không rỉ nước’. Hành giả nếu có thể kiên trì tu tập, thì khi ôm Minh Phi, cho dù tinh sắp xuất ra ngoài, chỉ cần vỗ đập một tiếng thì có thể lập tức bế tinh lại, không cho xuất ra. Nếu có thể giao hợp với Minh mẫu mà không xuất tinh, thì chắc chắn sẽ thành Phật. Phật bên trong người đó mãi mãi không thể lìa, khi đó Tâm du già mới đến: Một lỗ chân lông thành một thế giới, một thế giới là một đàn thành Phật, tự mình biến thành Văn Thù Bồ Tát, thân to lớn vô cùng. Trong mỗi một thế giới, mình đang giảng kinh cho chúng sinh, độ lần lượt từng người. Tu quán như thế, công đức vô lượng. Tinh dịch con người một khi đã xuất ra khỏi cửa quan, thu hồi vạn khó. Cho nên, khi tu Hoan hỉ tâm, hóa và giáng hạ xuống dưới nhưng không được quá thấp. Xuống quá thấp thì e rằng sẽ không nhịn nổi, sẽ mắc sai lầm xuất tinh ra ngoài mất. Còn khi từ dưới quay ngược lên, đến trên đỉnh đầu, Đại an lạc luân sinh ra hòa hợp Hoan hỉ tâm, thì cứ để lâu không ngại. Vì tinh đến chỗ này, không có lỗ nào để xuất ra ngoài, là chỗ kiên cố nhất...Hồng bạch dung hợp (Bạch Bồ Đề tâm tinh dịch nam và hồng Bồ Đề tâm dâm dịch nữ dung hòa với nhau), vì thế mà Hòa hợp Hoan hỉ tâm sinh ra, lúc xuất hiện thì đừng có nghĩ bất cứ việc gì, nhất tâm chỉ nghĩ đến tất thảy pháp Không, ta và Minh mẫu cũng đều Không”. (62-188, 189)

Người muốn tu Vô thượng yoga này, trước hết phải tu thành công Trung mạch Minh điểm, Bảo Bình khí và Chuyết hỏa trong Sinh khởi thứ đệ. Tiếp đến nam hành giả Mật tông phải chú trọng đến cải thiện cơ quan sinh dục, gọi là đúc kiếm: “Thu về phóng túng hỷ tiêu khương, tỳ thấp hoa nham xuất xứ cường, dược vật an bài tuần diệu lý, ‘Song mai ảnh các’ ghi xà sàng” (Chú thích gốc: Tiêu (hạt tiêu) có thể thu về, trong Mật pháp cũng dùng để bôi lên hoa sen (âm hộ) cho nó thu rút về. Khương (gừng) có thể phát tán trừ hàn thấp. Xà sàng (vị thuốc) dùng rửa chùy (dương vật) có thể trừ thấp, khiến nó cương cứng lâu. Bài này ghi chép trong cuốn “Song mai ảnh các” của Diệp Đức Huy)”. (34-313)

Lại nói thế này: “Quá khô chẳng khác kiếm mới mài, ướt thì làm sao qua sông lớn, duy chỉ muốn khô về ướt tốt, không dây mà đàn bài xuân vương. (Chú thích gốc: nếu quá khô thì đút một ít chuối vào bên trong. Xin hãy xem cuốn ‘Quang minh pháp tàng’ của tôi)”. (34-306)

Về khẩu quyết pháp thực tu này, trong cuốn “Đạo quả - Bản tụng Kim Cương cú kệ chú” (61-280~292), phái Tát Già lại giấu đi không nói, buộc phải nhờ thượng sư khẩu truyền mới biết. Nay lược thuật như sau:

“Khẩu quyết yếu quyết chia làm năm phần là Giáng, Trì, Hồi, Biến (Tán), Hộ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg