Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận -2 |
Về khẩu yếu[4]: Niệm âm Hồng dài, xuất ra không ngừng cùng khí, tại mỗi luân “thân yếu, khí yếu” quán tưởng tu từng cái. Nếu khi tu trì thấy khó quá, thì tại mỗi luân đồng thời tu cả tam yếu. Sau này nên ngồi độc một mình, tu đề điểm quyền pháp (tu quyền pháp “nâng chiết Minh điểm”), thì có thể tọa tùy theo an lạc, nắm tay quyền đặt trước mặt trên ngọa cụ (chỗ nằm), tu bên trong trụ khí ấm, men lên đỉnh chỗ thượng sư đại sĩ Liên Hoa Sinh, thực hành quán tưởng lay động trong hư không. Sau khi trì khí ấm dài, phát hết sạch khí ra ngoài, rồi hít đoản khí vào, theo lực đẩy phóng ra. Làm như thế bốn, năm lần, thân phần tự nhiên sẽ rung động an lạc. Đây gọi là pháp tiếp dẫn tán bố tự nhiên, là khí yếu vô công dụng. Cuối cùng hồi hướng, phát tâm quảng đại, hết sức tu nhiều Bình khí, tâm định ở trên thể tính bản lai. Cái này tương hợp với mật tu Không Hành của Ngũ bộ. Nó tương thuận với Sinh khởi thứ đệ và Viên mãn thứ đệ, Đạo thứ đệ dựa vào thủ ấn Minh mẫu để khiến cho Dũng Phụ Dũng mẫu hoan hỷ….Cống Cát khai thị cho Không Hành Mẫu và thiên nữ Nhân Thân chí tôn rằng: ‘Thứ nhất nhìn sắc, thứ hai nghe thanh, thứ ba ngửi hương, thứ tư chạm thịt, thứ năm lĩnh nạp mùi thù thắng (dùng miệng nếm vị dâm dịch), thứ sáu ôm nhau, thứ bảy hôn miệng, thứ tám nhập liên. Trước khi nhập liên cung, anh ta vốn cũng phải tiếp xúc với tám cánh hoa sen trước đã, cùng để cúng dường tám vị Không Hành Mẫu; tiếp đến là chạm đến bên ngoài hậu môn của người nữ để cúng dường Thủ phương mẫu. Sau khi làm như thế mới được nhập vào liên cung, là pháp hành chậm. Người nam dễ xuất tinh, người nữ thì không dễ sinh lạc, cho nên cần phải tiến hành chầm chậm, một là tránh xuất tinh sớm, hai là có thể đợi cơn khoái lạc của người nữ đến’. Lại xét: Pháp nâng chiết lên trên có sáu nhánh: Một là bụng dán sát lưng, hai là thót nâng hậu môn, ba là cổ áp hầu kết, bốn là lưỡi đẩy ngạc trên, năm là mắt đảo hướng lên trên, sáu là thượng khí xuất ra ngoài, hoặc lấy tay ấn huyệt Hội Âm. Sáu pháp này phải thực hiện trước khi xuất tinh sớm, thì nhất định sẽ không xuất trộm… Người có tiến bộ thì con đường chậm tiến trên đây phối với Ngũ trần. Sau khi tiếp xúc nhau, lại có Ngũ trần bí mật. Người nữ sau quá trình dài (bên nữ sau khi trải qua quá trình giao hợp lâu dài), sắc mặt chuyển hồng, càng thêm xinh đẹp, tiếng cười kinh ngạc, âm thanh chuyển nhã nhặn, mà liên cung càng cọ xát thì càng ẩm ướt phát ra tiếng kêu. Cũng có người lại quá khô, thì có thể bôi bằng quả chuối theo cuốn sách “Quang Minh pháp tạng” của ta, thì nhất định sẽ phát ra tiếng. Trong liên cung có mùi thơm như xạ hương, đó là của quý hiếm. Nhưng người có chủng tính tốt cũng có mùi lạ, không nhất định giống như người có mùi xạ hương. Sau khi tiếp xúc, lưỡi người nữ vốn dĩ có tân dịch (nước miếng). Lại đến khi liên cung có nước chảy ra, cũng có thể ăn nó. Ngũ trần trong sự tiếp xúc cọ sát đó càng thêm thâm lạc, không thể không phối hợp với Không tính mà làm. Cho nên, nhất định phải từ từ mà hành sự, thì thời gian thong dong, dễ tự phản tỉnh. Như khi quán sắc, sau khi lạc sinh khởi, Không tính có còn tồn tại hay không? Tất tự phản tỉnh. Nếu như nó không còn tồn tại, tất phải phối hợp. Như thế thì Sắc Không bất nhị, Thanh Không bất nhị, Hương Không bất nhị, Vị Không bất nhị, Xúc Không bất nhị, sau đó mới có thể hoàn thành “Lạc Không bất nhị”. Đó chính là mục tiêu của Sự nghiệp thủ ấn, không thể không biết đấy! Lại nữa, 64 pháp song già,…Trong 64 pháp này, phần cơ bản có 8 pháp, mỗi pháp lại có 8 pháp nữa, nên mới thành số (64) này. Một là Cận hiệp (đùa giỡn sát), hai là Vẫn hợp (hôn hít), ba là Chỉ lộng (đùa nghịch bằng tay), bốn là Xỉ ngoạn (chơi bằng răng), năm là Liên hý (nghịch đùa hoa sen), sáu là Thanh vận (âm thanh), bảy là Nhục cảm (cảm giác xác thịt), tám là Điên loan (điên loan đảo phượng). Đầu tiên là nói về Cận hiệp: Thứ nhất là Thiết ngọc (trộm ngọc), lén nhìn mặt người nữ, cùng tiến sát gần nhau, vuốt ve ngực cô ấy; Hai là Thôi tựu (tiến sát gần hơn nữa), dùng lời nói tỉ tê để gợi tình; Ba là Tình khiên (dắt tình), áp sát vuốt ve, môi lưỡi quấn nhau; Bốn là Ý nhạ (gợi ý), tay ôm cổ người nữ, hôn điên cuồng phát ra âm thanh (chụt chụt); Năm là Đằng triền (quấn quýt), một chân dẫm lên mu bàn chân người nữ, một chân quặp hông người nữ; Sáu là Trích anh (hái anh đào), tay nâng cổ người nữ lên mà hít hà (ra thành tiếng) đôi môi cô ấy; Bảy là Khế nhập (sáp vào), cùng ngủ dán bụng, chân quặp ôm eo; Tám là Thủy nhũ, chùy nhập liên cung (đút dương vật vào âm hộ). Về Vẫn hợp: Tức là hôn vào tám chỗ miệng, hầu, vú, sườn, eo, mũi, xương gò má, hoa sen (âm hộ). Về Chỉ lộng: Dùng tay vẽ nhẹ lên các chỗ môi, ngực, đủ để hiện lên vết hằn mảnh trên da thịt, cái đó gọi là Ngẫu ti[5]. Móng tay hơi ấn sâu, dí nơi ngực, hầu, khiến da hiện lên những vằn cong, đó gọi là Bán nguyệt. Khi người nữ cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa mà dúm mình thì dùng cả năm ngón tay ấn đều, đó gọi là Đàn thành. Tại chỗ đuôi lỗ rốn, vẽ những đường vằn dài, gọi là Triền miên. Lại vẽ những đường xiên ở các chỗ trước đây, gọi là Khinh sa. Dùng chùy thập tự vẽ ở gò ngực và dưới bầu vú, gọi là Yết ma. Dùng năm đầu móng tay ấn xung quanh vú gọi là Mai hoa. Vẽ hình hoa sen quanh vú gọi là Tiểu liên. Về Xỉ ngoạn: Lòng tham sắc sinh khởi (sinh dục vọng), sắc mặt rất hồng hào, đó gọi là Xuân sắc; Lấy răng ấn nhẹ lên môi người nữ, gọi là Điểm giáng; Dùng môi và răng khép lại mà cắn lên hai mép người nữ, gọi là San hô; Làm vẻ nhe nanh, dùng răng cửa cắn nhau gọi là Minh điểm; Lấy răng ấn liền dãy ở các chỗ eo, vai, hầu, giữa hai hàng lông mày, gọi là Châu man; Lấy răng ấn tản mạn tùy ý, không chỗ cố định, như mây trên tầng không, gọi là Xán vân; Lấy răng ấn các chỗ dưới sườn, gọi là Liên châu; Ấn răng vào những chỗ dễ gây buồn ngứa như dưới tai, khiến cho người nữ buồn rúm người, gọi là Phong tao. Về Liên hý: Bụng dán sát thân người nữ, rà đầu chùy (dương vật) nghịch lên các cánh hoa sen bên ngoài (mép ngoài âm hộ), gọi là Thổ lãng (nổi bọt sóng); Tay cầm gốc chùy, để nửa đầu chày nhập vào Liên cung (đút nửa thân dương vật vào âm đạo), gọi là Khinh khiêu (khiêu khích nhẹ); Người nữ duỗi chân nằm ngửa, nam chùy như cắm chùy Phổ Ba[6], chọc thẳng xuống, gọi là Thâm khiết (chọc sâu); Người nữ hoan hỉ hơi rướn người lên, rồi để cho (chùy) thâm nhập bất động (vào sâu nằm im), gọi là Bán tựu (thành tựu một nửa); Đột xuất đột nhập, vào ra liên tục, gọi là Đề tiếu (khóc cười); Vài lần nông một lần sâu, thay nhau mà thực hiện[7], gọi là Túy tửu (say rượu); Trên dưới cùng động đậy, nhúc nhích, gọi là Mặc khế (giao ước ngầm); Lần đầu thì đút vào từ từ một nửa, lần thứ hai đột nhiên cắm ngập chùy, gọi là Mãn nguyện. Về Thanh vận: Như tiếng kêu khóc rấm rức (không ra tiếng), như than oán, như thở, như rên, như a-oa-đả, như oa-na-a-đả, như tiểu giải thoát, như a-oa-tước-oa (Chú thích gốc: tên gọi mấy tiếng kêu sau, thượng sư Cống Cát nói không biết là cái gì), lần lượt tựa như tiếng kêu của bồ câu, đỗ quyên, cáp-lý-đả, con cò, ong mật, ngỗng, xuân điểu (én), ba-oa-giá, đều là tiếng phát ra từ trong bụng. Về Nhục cảm: Giống với hôn hít bên trên (Chú thích gốc: cùng vị trí), chủ yếu sử dụng nắm tay, lòng bàn tay, cùi chỏ, eo, mặt…Ví dụ, dùng tay mát xa mà phát ra 8 loại âm thanh kể trên, thì gọi là tham tướng, tất sinh Đại Lạc. Nếu như khí phát ra từ miệng quá lạnh thì ấn lâu. Về Điên loan: Cơ thể người nam béo phì, người nữ không thể chịu được sức nặng đè xuống, thì phải đảo lộn vị trí mà làm. Người nữ thay vị trí làm như người nam, thực hiện như sau: Vắt ngựa chạy mau gọi là Bào (chạy); Cắm lâu rút chậm là Án (đè); Chân quấn lấy nhau, bụng người nữ như chuyển luân (bánh quay nghiêng nửa vành – nghiêng người qua lại) gọi là Triển (chuyển); Đùi người nữ quấn nhau, người nam hơi chuyển động từ dưới, gọi là Si (sàng); Người nam nghỉ ngơi gọi là Thản (bằng phẳng); Người nam bất động, người nữ từ từ làm, gọi là Thoi (suốt); Chân tay người nam duỗi thẳng gọi là Túy (say); Người nữ quay lưng về phía người nam mà ngồi, làm phía trên gọi là Kiều (yêu kiều). 64 thức này tùy ý mà làm, để nhập vào Không – Lạc. Nói vắn tắt về khế nhập Không Lạc như trên, thực ra phải làm từ từ, vừa sinh Lạc, vừa khế nhập Không. Nếu như mới bắt đầu thực hiện “Cận hiệp” mà không thể đạt Không thì lập tức dừng lại, sám hối, sau đó lại thử tiếp. Nếu như thực hiện cứ được hai mà có một thứ tự bất Không thì tất cả các thứ tự sau đều phải dừng lại. Bắt buộc phải là vừa sinh Lạc, vừa thành Không thì mới có thể từng bước tiến lên, lần lượt tăng cường cái Lạc, theo đó mà khế hợp với Không. Mục đích của các bản sách sao chỉ chép giữ lại phương pháp đắc Lạc, còn về sinh Không trên Lạc, tu Lạc trên Không, là đạo mà người học cần biết thì lại ít được dạy dỗ. Ta không thể không bổ sung cho Cổ Đức. Nên biết là thà rằng không Lạc chứ không thể không đắc Không. Đắc Lạc thì dễ rơi vào phàm phu, đắc Không thì tất chứng Bồ Đề, không thể không cẩn thận thực hành. Còn về việc trong sách trích dẫn nhiều về “mạch dược vật bí mật của mỹ nữ”, ta đã từng hầu cận Nhân Ba Thiết (thượng sư) đến tiệm thuốc lớn, xét kỹ từng vị, mới biết được các vị thuốc tiếng Trung và vị thuốc tiếng Tạng sản xuất ở Bắc Bình, có vị thuốc cùng loại mà khác tên. Các cuốn sách sao chép được dịch đa phần đều có sai sót, không thể áp dụng được, dùng tất vô hiệu. Cho nên muốn để mạch tương hợp với mạch, cần phải áp dụng các tư thế khác nhau, lần lượt thử nghiệm. Mạch người nữ vừa ngắn, hơn nữa vị trí khác nhau tùy người, nên bắt buộc phải để (phần chót Trung mạch – nam nữ âm) của hai bên tương giao, không được chia lìa, như kiểu của bọn chó ấy (như trạng thái hai con chó giao hợp xong, không thể rút ra được vậy. Chi tiết xem phụ chú phần cuối của đoạn văn trích dẫn này). Cái cảm nhận này không cần thật sự không chia lìa, mà là để đảm bảo hai mạch đã chạm tiếp vào nhau, đó là kinh nghiệm thực tu của ta và vợ ta. Thế nhưng nếu đổi người nữ khác mà thực hành thì lại không giống nhau. Thầy Công từng cho phép một người nữ khác cùng tu với ta, thì thấy mạch của cô ấy và vợ ta khác nhau, qua đó có thể hiểu được. Khi mạch của cô ây đã ngậm nhau (tiếp xúc), bên nữ mới dễ chảy hồng Bồ Đề ra, đó cũng là một trong những cách thức khảo nghiệm. Các cuốn sách khác hoặc không có nói đến tư thế, hoặc nếu như có nói thì cũng ít nói rõ (vấn đề này). Tư thế nào đối với loại người nữ nào mới dễ dẫn chảy ra, tất cả đều dựa vào bản thân hành giả mỗi lẫn tu song vận, đổi tư thế để sao cho vừa khéo, đồng thời cũng cần phải trao đổi giao hẹn trước với người nữ: lúc nào, chỗ nào thì đắc Lạc, cần lập tức tán thán, để hành giả thăm dò biết được phương hướng của mình, đồng thời xác định tư thế đó mới dễ thực hành. Hành giả tất phải hiểu rõ: Phàm đã vào lúc mạch ngậm nhau thì cái Lạc đó tất sẽ lớn, mà cũng dễ xuất tinh, cho nên phải thận trọng nâng chiết lên. Trong cuốn “Hạ môn đại lạc dẫn đạo sao bản” có nói bốn thức sau: Một là nam ôm cổ nữ, nữ ôm eo nam, chùy lên xuống như thoi, mạch ở bên trái hoa mới xuất; Hai là nữ nằm ngửa, gối kê cao đầu, chân nữ gác thẳng lên vai mình, nam ôm từ dưới mà hành, mạch từ trên dưới mới xuất hiện. Ba là chân nữ gác lên khèo tay nam, nam ôm dưới eo nữ mà hành, mạch từ hai bên trái phải hoa sen mà ra; Bốn là chân nữ duỗi thẳng lên ngực nam, một chân nam cong bên eo nữ, một chân thẳng, tay ôm hạ bộ người nữ, mạch từ chính giữa xuất hiện. Bốn người nữ này: Loại đầu tiên là giống Kim Cương, loại thứ hai là giống Liên Hoa, thứ ba là giống Thú, thứ tư là giống Voi. Bản thân ta thì cho rằng mỗi chủng loại người nữ đều có đặc sắc riêng, không nhất định có thể gặp được. Làm thế nào để có thể thám tìm mạch của người nữ đồng tu có duyên với mình, không thể chỉ giới hạn ở bốn loại tư thế này. Nó có thể là trái phải, có thể là trên dưới, không có chỉ định, cũng có vấn đề. Khi dò thám bằng tư thế “chùy liên cùng thuận, tám hướng đều theo”, cho đến khi có cảm giác ngậm nhau thì mới dừng. Các sách nói về thuật phòng the đều có hơn 30 loại tư thế khác nhau, gần đây còn có cả ảnh chụp, chẳng thà lấy ta và người đồng tu ra làm thực tế, mới có thể làm bằng. Cho nên mới nói tin tuyệt đối vào sách chẳng bằng không đọc sách vậy. Lại có loại cao cấp hơn: Các cuốn sách sao chép bí mật cũng có nhiều câu chú bí mật, vị thuốc bí mật, bùa sớ bí mật để dẫn dụ Không Hành nữ. Ta không dám nói “không có linh nghiệm”, nhưng ta cho rằng các cách làm này vừa không dễ thực hiện, cũng chưa chắc đã hiệu nghiệm hoàn toàn. Cách tốt nhất là nhất định phải giữ gìn giới luật, để chiêu cảm “thần hộ pháp bảo vệ Mật pháp” đến dẫn dắt cho hành giả. Ta về mặt tư cách đạo đức đã từng thấy được sự hiệu nghiệm này. Người nữ được dẫn dắt đến cũng có quang, hơn nữa còn được thần hộ pháp thông báo: Không Hành đã đến. Không cần phải quan sát tướng gì hết, khi chưa gặp mặt thì đã nhìn thấy quang (ánh sáng) trước rồi. Còn sau khi gặp mặt, không cần phải dẫn dụ, tự nhiên kết hợp (giao hợp luôn). Khi người nữ ấy đi, không có bám víu hay bất cứ phiền phức thế tục nào khác. Đó chính là nhờ đạo giữ gìn bảo vệ của thần hộ pháp vậy. Loại cao cấp hơn, là nhờ có thể tu Không Hành nữ mà được tương ứng, giữ gìn Minh điểm, có đủ Bồ Đề tâm. Người nữ thì đúng như lời thề của mình, tự đến cúng dường. Lúc tu tập với người đó, cảm ứng lớn nhất, hoặc là thấy nhật, nguyệt, hoặc trụ trong chính định, hoặc khế hợp với Đại ấn. Sau khi đi thì càng không có bất kỳ phiền phức thế tục nào hết. Vừa không cần phải dùng đến thuốc dẫn, cũng chẳng cần dùng tiền bạc, đồ ăn thức uống để dẫn dụ, đó là hiệu quả đặc biệt tự đến của Không Hành nữ này. Loại tối thượng, có thể tu các loại quán tưởng Không Lạc bất nhị, Đại ấn minh thể tự nhiên hiện tiền, có đủ các loại sức mạnh sự nghiệp đại bi, có thể dẫn sinh công đức Bản Tôn thành tựu. Vừa là Bản Tôn, tự có Phật Mẫu. Khi chưa gặp người ấy thì sẽ có dự báo trước. Khi người ấy đến, gặp nhau thì như thể đã thân quen từ lâu. Khi thì thăm nhau đường xa, khi thì bỗng nhiên gặp mặt, lúc hành sự không chút chướng ngại, lúc nào cũng có Không Lạc. Sau khi hành sự, không ai phát hiện, mà cảm giác chứng ngộ từng bước tăng trưởng. Những điều này có được đều là nhờ bản thân hành giả giới luật đầy đủ, định lực thâm sâu, trí tuệ tăng trưởng và tất cả mọi công đức. Tóm lại, nhân quả không hoại, Minh điểm sung mãn, khí công đầy đủ, trí tuệ tương khế với Tứ hỷ Tứ không trong Mật pháp, tất sẽ có Không Hành nữ đến trợ giúp mình”. (34-279~303) Phụ chú: “Khi hai mạch nam nữ tương hàm, ngọc nữ lắc mạnh như chó cái, đại lạc dung hòa lăn trên giường, liên chùy dính chặt chẳng lìa chia”. (34-306) Lại nữa, hành giả Mật tông nào muốn tu pháp này, trước hết còn phải thông đạt mạch khí Ngũ luân, thì sau đó mới có thể tu: “Cho nên muốn áp dụng đạo lý Song thân pháp, chính là phải dùng khí công mở mạch tầng ngoài của Mật luân, sau đó hành khí khắp nơi để mở mạch tầng ngoài Tâm luân. Khi mạch tầng ngoài của Tâm luân mở ra rồi, khí mới dễ vào trong Trung mạch. Sau đó, bên dưới dùng hỏa xung (Chú thích gốc: Chuyết hỏa), bên trên dùng thủy xung (Chú thích gốc: Trên Đỉnh luân nhỏ giọt Minh điểm). Như thế thì sẽ mở được từng tầng từng lớp Tâm luân rồi. Cho nên, mở Ngũ luân là phải mở từ Tâm luân trước. Nhưng tu thì phải bắt đầu tu từ Mật xứ (chỗ kín), cho nên tính quan trọng của tu song vận chính là ở chỗ này. Anh không tu song vận, thì mạch vòng ngoài của Mật xứ sẽ không dễ mở ra. Cho nên người ta đều nói cái tinh hoàn này là tổng tinh đó! Tất cả mọi tinh đều tổ chức ở chỗ này. Cần phải tu chỗ này hàng ngày, dùng sức mạnh Tam ma địa Không tính, dùng khí công, dùng song vận, từ từ mở nút chỗ này ra”. (32-235) Nếu không tu cho thông đạt mạch khí Ngũ luân, thì trong quá trình hợp tu song thân, không thể đưa khí trụ ở đầu Ma ni để giữ cho không tiết lậu (bế tinh), cũng không thể duy trì lâu trạng thái cực khoái tình dục mà chắc chắn sẽ xuất tinh. Như thế thì sẽ không thể nào đạt được cảnh giới “lúc chính tu, lĩnh nạp dài lâu qua tám thời và hơn thế nữa” như Tông Khách Ba đã dạy, thì việc “làm thế nào để có thể duy trì được trí tuệ lớn và lâu nhất của lạc xúc” sẽ không thể nào sinh khởi được. Mà như thế thì không phải là người đắc Đại Lạc, thì vĩnh viễn không thể thành “Phật của Mật tông” được. Cho nên, người nào muốn tu Song thân pháp này, trước hết bắt buộc phải đạt được thành tựu tu hành Sinh khởi thứ đệ, thì sau mới có thể thụ quán đỉnh thứ tư và hợp tu Song thân pháp với người khác. Vì thế mới nói rằng: “Mệnh nằm ở Tâm, giống như nhụy trong hoa sen. Người tu bề ngoài tâm thì kiên cố, nhưng bên trong thì ‘Tâm chứa tất thảy Phật’ không thể đi được. Phật được thỉnh đến, bên trong đều có, bị phần kiên cố giữ lại, mãi mãi không thể hiển lộ. Tục ngữ có câu rằng: ‘Không có lỗ không rỉ nước’. Hành giả nếu có thể kiên trì tu tập, thì khi ôm Minh Phi, cho dù tinh sắp xuất ra ngoài, chỉ cần vỗ đập một tiếng thì có thể lập tức bế tinh lại, không cho xuất ra. Nếu có thể giao hợp với Minh mẫu mà không xuất tinh, thì chắc chắn sẽ thành Phật. Phật bên trong người đó mãi mãi không thể lìa, khi đó Tâm du già mới đến: Một lỗ chân lông thành một thế giới, một thế giới là một đàn thành Phật, tự mình biến thành Văn Thù Bồ Tát, thân to lớn vô cùng. Trong mỗi một thế giới, mình đang giảng kinh cho chúng sinh, độ lần lượt từng người. Tu quán như thế, công đức vô lượng. Tinh dịch con người một khi đã xuất ra khỏi cửa quan, thu hồi vạn khó. Cho nên, khi tu Hoan hỉ tâm, hóa và giáng hạ xuống dưới nhưng không được quá thấp. Xuống quá thấp thì e rằng sẽ không nhịn nổi, sẽ mắc sai lầm xuất tinh ra ngoài mất. Còn khi từ dưới quay ngược lên, đến trên đỉnh đầu, Đại an lạc luân sinh ra hòa hợp Hoan hỉ tâm, thì cứ để lâu không ngại. Vì tinh đến chỗ này, không có lỗ nào để xuất ra ngoài, là chỗ kiên cố nhất...Hồng bạch dung hợp (Bạch Bồ Đề tâm tinh dịch nam và hồng Bồ Đề tâm dâm dịch nữ dung hòa với nhau), vì thế mà Hòa hợp Hoan hỉ tâm sinh ra, lúc xuất hiện thì đừng có nghĩ bất cứ việc gì, nhất tâm chỉ nghĩ đến tất thảy pháp Không, ta và Minh mẫu cũng đều Không”. (62-188, 189) Người muốn tu Vô thượng yoga này, trước hết phải tu thành công Trung mạch Minh điểm, Bảo Bình khí và Chuyết hỏa trong Sinh khởi thứ đệ. Tiếp đến nam hành giả Mật tông phải chú trọng đến cải thiện cơ quan sinh dục, gọi là đúc kiếm: “Thu về phóng túng hỷ tiêu khương, tỳ thấp hoa nham xuất xứ cường, dược vật an bài tuần diệu lý, ‘Song mai ảnh các’ ghi xà sàng” (Chú thích gốc: Tiêu (hạt tiêu) có thể thu về, trong Mật pháp cũng dùng để bôi lên hoa sen (âm hộ) cho nó thu rút về. Khương (gừng) có thể phát tán trừ hàn thấp. Xà sàng (vị thuốc) dùng rửa chùy (dương vật) có thể trừ thấp, khiến nó cương cứng lâu. Bài này ghi chép trong cuốn “Song mai ảnh các” của Diệp Đức Huy)”. (34-313) Lại nói thế này: “Quá khô chẳng khác kiếm mới mài, ướt thì làm sao qua sông lớn, duy chỉ muốn khô về ướt tốt, không dây mà đàn bài xuân vương. (Chú thích gốc: nếu quá khô thì đút một ít chuối vào bên trong. Xin hãy xem cuốn ‘Quang minh pháp tàng’ của tôi)”. (34-306) Về khẩu quyết pháp thực tu này, trong cuốn “Đạo quả - Bản tụng Kim Cương cú kệ chú” (61-280~292), phái Tát Già lại giấu đi không nói, buộc phải nhờ thượng sư khẩu truyền mới biết. Nay lược thuật như sau: “Khẩu quyết yếu quyết chia làm năm phần là Giáng, Trì, Hồi, Biến (Tán), Hộ.
|
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |