The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận

 Tiết 6: Lược thuyết về pháp thực tu Lạc Không song vận

Lạc Không song vận là tư tưởng chung của các đại phái Mật tông, cũng là tư tưởng gốc rễ của tất cả các tông phái Mật tông. Đông Mật tuy không ngoại truyền pháp này, nhưng trong kinh điển căn bản của họ cũng có ghi chép về pháp này. Lý luận tu hành và pháp môn thực tu của tất cả các tông phái Mật tông Tây Tạng đều lấy pháp môn hợp tu song thân nam nữ này làm mục tiêu cuối cùng, không có tông phái nào tự đặt mình nằm ngoài pháp tu song thân này. Nếu như nêu ra từng tông phái một, e rằng sẽ khiến độc giả nhàm chán, nên ở đây chỉ nêu ra thuyết của tông phái tương đối lớn của Mật tông Tây Tạng, còn lại thì sẽ tự biết được vì đều đồng một lý cả, chỉ có khác biệt đôi chút về mặt chi tiết mà thôi. Nay trong tiết này, tôi nêu ra vắn tắt chủ trương của các nhà, rồi phân tích tổng hợp. Trước hết, xin dẫn lời của Tông Khách Ba:

“…Như “Man luận” nói: ‘Từ huệ hợp cát tường, chính là biểu thị chân thực, từ Kim cương già phu, tâm nhập trong ma ni’…Là nói trong Tứ hỷ đó lập ra Câu sinh trí chính là trí tuệ này. Khi nó sinh khởi, lúc mà Bồ Đề tâm đến kim cương ma ni mà chưa ra (vì có cực khoái tình dục mà tinh dịch chạy ra đến đầu chót quy đầu, khi mà thập thò sắp ra). Kim cương già phu, là nói việc trụ ma ni, hai lỗ mũi đóng lại ngừng thở (Khi lạc xúc đã lên đến mức cực đại, khiến cho tinh dịch chạy ra đến đầu chót quy đầu nhưng dùng khí công ngăn lại, không cho xuất ra, khiến cho lạc xúc lên đỉnh điểm mà không ngừng ngắt, đến khi không thể chịu nổi thì ngừng thở, đó gọi là “Kim cương già phu”). Đại sư Thuế Y nói lúc sinh và thể tính giống với trước, trong bốn hoan hỷ, ý nói sinh ở Thắng hỷ, Ly hỷ, Trung gian. Thày Tát Nhạ Cáp cũng nói Câu sinh trí là quán đỉnh thứ ba. Nếu truyền quán đỉnh cho người nữ, ‘ở chỗ kim cương (chỗ dương vật của người nam)’ phải hiểu là hoa sen (thì nên hiểu nói ở bên nữ là âm hộ). Việc này cũng giống như khi Diệu Cát Tường khẩu truyền dạy quán đỉnh thứ ba nói: ‘Từ hư không giới kim cương hợp, người đủ chính nhãn sinh đại lạc. Nếu lìa dục hỷ ở chính hỷ, thấy nhị trung gian viễn lìa kiên (nhìn thấy chính đạo, lìa xa tham ái xuất tinh, khiến cho hạ thể cứng mãi). Liên Không (trong âm hộ không có vật gì gọi là Liên Không) Kim Cương (dương vật cương cứng gọi là kim cương) Ma Ni (quy đầu khi cương cứng thì trơn bóng như châu báu) Bảo (ý cả câu là: Không tính hoa sen của người nữ và châu báu ma ni kim cương của người nam), liên tàng nhị hợp kim cương phu (khi hoa sen và kim cương ma ni, hai cái giao hợp đạt đến cực lạc, mũi tạm ngừng thở), nếu lúc đó thấy Tâm nhập vào ma ni (nếu khi đó có thể mục kích thấy Bồ Đề tâm tinh dịch tiến ra đến quy đầu mà không xuất ra, mãi mãi trụ ở trong cảnh giới đại lạc đó), thì biết an lạc đó là trí (lúc này nhận biết được cái Lạc và Không đó tức là chứng được trí tuệ của Phật pháp). Đó là đạo Viên mãn thứ đệ (đây là pháp môn tu hành thứ tự Phật pháp viên mãn), tối thắng sư trưởng cùng tuyên thuyết (các sư trưởng tối thù thắng trong Phật giáo đều cùng nhau tuyên thuyết pháp môn thắng diệu này). Trong ‘tham () ly tham’ đều vô đắc (trụ trong đại lạc mà quan sát, thấy rằng sinh khởi tham hoặc lìa tham trong cảnh giới lạc này, kỳ thực đều là pháp vô sở đắc, vì lạc xúc cũng không có hình sắc), sát na Diệu trí hiển ở đó (trong sát na sinh khởi đại lạc khi đạt đến Đệ tứ hỷ, Diệu trí sẽ hiển hiện trong cơn đại lạc), tám thời mỗi ngày hoặc một tháng (người học Phật pháp Mật tông cần tu 16 tiếng mỗi ngày, hoặc cả ngày, suốt cả một tháng), năm, kiếp, ngàn kiếp thụ trí này (thậm chí cho đến cả năm, cả kiếp, cả ngàn kiếp để hưởng thụ đại lạc và trí tuệ này)’. Vào chính lúc quán đỉnh, thụ ở tu du khoảnh (đúng lúc nhận quán đỉnh bí mật này, các loại lạc cảm nhận được đó chỉ được lĩnh nạp vào khoảnh khắc khi cái lưỡi đang nếm “cam lộ”). Lúc chính tu tập, lĩnh thụ dài lâu qua tám thời đẳng (Vào lúc thực sự tiến hành hợp tu với người khác giới, thì cần lĩnh thụ cái cực lạc này thật lâu, thời gian buộc phải kéo dài liên tục mỗi ngày 16 tiếng đồng hồ. Chữ “đẳng” ở đây nghĩa là nói thụ lạc cả ngày, cả tháng, cả năm, cả kiếp, cả ngàn kiếp)”. (21-383~384)

Ở đây ý nói Tông Khách Ba chủ trương rằng: Người chứng đắc “trí tuệ Bát Nhã” thành Phật bắt buộc vào lúc song thân hòa hợp, khi đang ở giai đoạn “kim cương già phu”, vận Bồ Đề tâm nhập vào ma ni (vận ra đầu chót quy đầu), vì vận ra đến chỗ này nên có thể hưởng thụ đại lạc, rồi lại dùng pháp khí công để ghìm nén, khiến cho tinh dịch giữ mãi ở trạng thái sắp xuất mà không xuất, không tiết ra ngoài. Việc trụ mãi ở trạng thái đó, có thể sinh ra đại lạc Đệ tứ hỷ. Trí tuệ của đại lạc này gọi là Câu sinh trí, còn gọi là “trí tuệ”.

“Kim cương già phu” mà Tông Khách Ba nói trong đoạn văn này là chỉ thời khắc tinh dịch sắp xuất mà chưa xuất và sinh ra đại lạc, bị khí công chuyết hỏa ghìm giữ ở ma ni (quy đầu) mà không phụt ra ngoài, khi đang ngất ngây hưởng thụ cơn đại lạc cực khoái mãnh liệt nhất đó mà dẫn đến tình trạng lỗ mũi tạm ngừng thở, thì gọi là “kim cương già phu”, chứ không phải là tư thế ngồi kiết già trong ngồi thiền đâu.

Nếu pháp được truyền là quán đỉnh bí mật giành cho nữ đệ tử, thì khi thượng sư khai thị cho người nữ thụ quán đỉnh này cần nói rõ rằng: ‘phần nói về bốn chữ chỗ kim cương đó chính là chỉ liên hoa (hoa sen - âm hộ - hạ thể của người nữ). Ma ni trong câu tâm nhập vào ma ni là chỉ âm đế (mồng đóc) của hoa sen). Ý nói, khi nữ hành giả thụ quán đỉnh bí mật này, nam thượng sư phải chỉ thị rõ cho nữ đệ tử biết rằng: “Khi Minh điểm và cực khoái tình dục tập trung ở âm đế và cảm nhận nó, thì có thể sinh ra lạc xúc lớn nhất. Trong cảnh giới đó, cần nhận biết rằng thể tính của dâm lạc này là không có hình sắc vật chất, cho nên gọi là Không tính. Tâm giác tri trong cơn dâm lạc này cũng không phải là sắc pháp vật chất, cho nên cũng là Không tính. Cảm nhận xúc giác của thứ dâm lạc này và cái Tâm giác tri lĩnh thụ được khoái lạc này, kỳ thực không phải là hai thứ riêng rẽ mà cùng là một thứ do Tâm giác tri thành tựu (tạo ra), cho nên gọi là Lạc Không bất nhị”.

Như vậy, trong quá trình nam thượng sư giao hợp với nữ đệ tử, bằng các phương tiện tu hành, ông ta khiến cho nữ đệ tử giữ được cơn cực khoái tình dục trong suốt thời gian dài. Đồng thời, trong cơn cực khoái tình dục liên miên bất tận đó, còn dạy cho đệ tử “phương pháp làm thế nào để duy trì được dâm lạc không ngừng nghỉ” và liên tục cảm nhận thể nghiệm được loại “Không tính” này, đó gọi là Lạc Không song vận. Quá trình mà nam thượng sư thực hành tại chỗ và chỉ dạy từng tí cho nữ đệ tử như thế chính là nội dung của quán đỉnh thứ tư.

Nữ đệ tử sau khi nhận được quán đỉnh này, hoặc nam đệ tử sau khi được nữ thượng sư truyền cho quán đỉnh thứ tư này, theo ý chỉ của Tông Khách Ba thì còn phải thực hành thêm vào các thời gian khác. Khi thực hành, thì không phải như lúc thượng sư làm quán đỉnh thứ tư, chỉ kéo dài một, hai giờ đồng hồ là kết thúc mà vào lúc chính tu tập pháp này, phải duy trì được cảm nhận dâm lạc này trong thời gian thật dài, sinh ra được “cảm giác dâm lạc là Không tính” và “Tâm giác tri trong cơn lạc thụ này cũng là Không tính”; sau khi duy trì được hai “Không tính kiến” như thế không đứt đoạn, liền sau đó là sinh ra “Tâm giác tri và Không tính không hai, dâm lạc và Không tính cũng không hai”, rồi an trú trong cảnh giới “Lạc Không bất nhị” đó, tiếp tục duy trì cơn cực khoái tình dục trong thời gian thật dài lâu. Việc trụ ở trong cảnh giới Lạc Không song vận của Đệ tứ hỷ như thế, gọi là chính tu (tu tập đúng đắn chính xác) của Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận. Người nào có thể an trú trong cơn cực khoái tình dục Đệ tứ hỷ và “chính kiến về Không tính” suốt thời gian dài mà không mất đi (thoái dần) như thế, rồi lại có thể tiếp tục tinh tấn dụng công, khiến cho lạc xúc lan tỏa khắp toàn thân, ngũ luân đều nhận đầy đủ đại lạc, thì gọi là “thành tựu Chính Biến Tri Giác”, tức là đã thành Phật đạo cứu cánh. “Phật” của Mật tông từ việc có được thứ đại lạc này làm quả báo, nên nói “Phật quả” mà họ chứng được là “Báo thân Phật, Pháp thân Phật”, vì chứng được quả báo đại lạc này. Pháp môn này chính là pháp môn tức thân thành Phật vô thượng yoga mà tất cả các tông phái của Mật tông đều có chung.

Đệ tử Mật tông sau khi thụ quán đỉnh thứ tư, buộc phải tiếp tục chọn thời gian và địa điểm để cùng Minh Phi hợp tác (nếu là người nữ thì cùng Dũng Phụ - người nam khỏe mạnh có thể khiến cho người nữ hưởng thụ dâm lạc thật lâu mà không xuất tinh, dẫn đến mềm rũ), hoặc lại cùng thượng sư khác giới hợp tu Song thân pháp, lĩnh thụ cảnh giới Lạc Không song vận trong thời gian dài, đó gọi là “chính tu hành” của vô thượng yoga. Thời gian chính tu vô thượng yoga để lĩnh nhận Lạc Không song vận, mỗi ngày ít nhất phải trải qua tám thời thần (mỗi thời thần là bằng hai tiếng đồng hồ). Vì thế mà Tông Khách Ba mới nói: “Chính tu tập thời, trường thời lĩnh thụ bát thời đẳng”. Chữ “đẳng” ở đây nghĩa là nói thụ lạc cả ngày, cả tháng, cả năm, cả kiếp, cả ngàn kiếp[1].

Tông Khách Ba cho rằng cái sự tham dục đó không nên xả bỏ, vì đó là “đạo thành Phật”. Để cầu được thượng sư đích thân chỉ đạo trong quán đỉnh thứ tư, còn phải toàn thân đảnh lễ thượng sư, sau đó dùng sắc thân của mình cúng dường cho thượng sư (cùng thượng sư hợp tu Song thân pháp): “…Thầy Đáp Nhật Già Bạt nói: ‘Lại phải toàn thân rạp đất đảnh lễ ở cửa đông, úp đầu không ngẩng để dùng thân cúng dường cho sư trưởng’…Từ sau khi nhập vào trong đó (từ sau khi nhập vào cảnh giới Lạc Không song vận đó), thì từ nay trở về sau cho đến giai đoạn vẫn chưa chứng được Bồ Đề, đắc Hoan hỉ trụ trong nhân thiên. Như “Man luận” nói: ‘Do nhờ định không tạo tội nghiệp, thoát được ác đạo, nói quyết định thụ nhận thiện đạo mà an lạc. Từ việc nhập vào đó mà thấy được (nhập vào cảnh giới Lạc Không bất nhị và chứng được), các ngươi về sau chắc chắc không còn bị chết, vì ngươi đã nhập vào Kim Cương thừa đại lạc tự tính đại giải thoát này rồi’”. (21-410)

Vì sao người thụ quán đỉnh thứ tư này lại phải dùng sắc thân để cúng dường cho sư trưởng? Bởi lẽ trong đó có rất nhiều chi tiết khó có thể nói bằng lời, nếu không thuyết minh tường tận từng cái một ngay tại hiện trường lúc hợp tu, mả chỉ là lời nói giải thích dựa vào hồi ức tưởng tượng của thượng sư thì vô cùng khó chính xác để thể nghiệm chi tiết, vì thế mà bắt buộc phải cúng dường thượng sư bằng sắc thân. Nếu người nào không hợp tu cùng thượng sư, thì khó có thể miêu tả chi tiết từng thứ trong đó, còn có thể vấp phải những chỗ bỏ sót không đầy đủ nữa. Như thế thì hành giả không thể nào lĩnh thụ được mật ý thực sự của Song thân pháp vô thượng yoga mà thượng sư tuyên giảng, bởi thế mà phải dùng thân để cúng dường cho thượng sư. Các thượng sư Mật tông cũng thường xuyên vin vào cớ này để yêu cầu các đệ tử khác giới có sắc tướng anh tuấn, xinh đẹp cúng dường cơ thể họ cho thượng sư. Nếu như các đệ tử không tin vào những lời nói đó của thượng sư thì họ sẽ đem luận ý trên của Tông Khách Ba ra cho đệ tử xem, khiến cho đệ tử buộc phải tin theo mà cúng dường cho họ.

Tông Khách Ba nói sau khi nhập đàn thụ quán đỉnh thứ tư thì “liền lìa tất cả mọi tội lỗi như sát sinh…”, nhưng thực tế thì không hề lìa bỏ được tội sát sinh trước đây một chút nào, vì tội sát sinh không thể nào tiêu trừ được bằng quán đỉnh thứ tư. Tội sát sinh có hai loại: Thứ nhất là giới tội, thứ hai là tính tội. Giới tội thì phải ngày ngày đến trước mặt Phật chí thành sám hối cho đến khi thấy hảo tướng thì mới diệt được tội, còn tính tội thì phải chịu quả báo ở đời sau thì mới diệt được, chứ không phải là vào đàn quán đỉnh thụ quán đỉnh thứ tư là có thể diệt trừ được tội.

Lại nữa, người học Phật nếu vào đàn quán đỉnh này hợp tu pháp quán đỉnh thứ tư với thượng sư, thì tức là hai thày trò đều phá giới nặng tà dâm, chắc chắn sẽ đọa địa ngục chịu quả báo thuần khổ cực nặng trong vô lượng kiếp. Lại nữa, nói theo thế gian pháp, những hành vi đó cũng là hành vi loạn luân, thày trò cũng phạm tà dâm, làm trái với tam cương ngũ thường, nhân luân không thể dung thứ. Hành động mà còn không hợp với đạo đức nhân luân, thì sao có tư cách tu học Bát Nhã thâm sâu và Chủng trí vô thượng của Đệ nhất nghĩa? Tuyệt không có cái lý đó! Cho nên, thuyết “Vô thượng yoga” có thể thành Phật đạo của Mật tông chỉ là thuyết tự lừa dối mình dối người mà thôi.

Thượng sư Mật tông và người thụ quán đỉnh thứ tư của Mật tông tu tà hành như vậy, thì tuyệt đối không thể nào được như Tông Khách Ba nói: “Từ sau khi nhập vào trong đó, thì từ nay trở về sau cho đến giai đoạn vẫn chưa chứng được Bồ Đề, đắc Hoan hỉ trụ trong nhân thiên”. Vì sao vậy? Vì nếu nhập vào đàn thành này cùng hành tà dâm với thượng sư thì chắc chắn sẽ phải chịu khổ báo nơi địa ngục, sau đó chuyển lên ngạ quỷ đạo và súc sinh đạo chịu hết dư báo, thì mới có thể quay lại nhân gian. Trong “năm trăm năm đầu” khi trở lại nhân gian lại còn phải chịu hoa báo: Sinh nơi biên địa, ngũ căn không đầy đủ, mù điếc ngọng câm. Những quả báo như thế đều được ghi chép đầy đủ trong kinh Đại thừa, Tông Khách Ba vì sao nhìn mà không thấy, lại tiếp tục đem hành môn cuồng Mật này di hại cho hành giả Mật tông? Tại sao các hành giả Mật tông không đọc lời Phật trong các kinh điển đó mà lại tin những lời nói dối của Tông Khách Ba?

Vì những tà hành và tà kiến trong đàn quán đỉnh thứ tư đó, sau khi thụ quán đỉnh lại cùng hành giả khác giới hoặc thượng sư hợp tu “vô thượng yoga” ngoài phối ngẫu (vợ/chồng) của minh cho , nên đã thực hiện chủng tính địa ngục phá hủy trọng giới, người nào không xuống địa ngục chịu nỗi khổ trường kiếp mới là chuyện khó. Thế mà vì sao Tông Khách Ba lại có thể lừa dối chúng sinh, nói rằng: “quyết định thụ nhận thiện đạo mà an lạc”? Hành động tà dâm và tà hành phá hoại pháp nghĩa Phật giáo như thế, tại sao Tông Khách Ba lại có thể lừa dối chúng sinh, nói rằng: “Từ việc nhập vào đó mà thấy được, các ngươi về sau chắc chắc không còn bị chết, vì ngươi đã nhập vào Kim Cương thừa đại lạc tự tính đại giải thoát này rồi”? Những lời nói đó đều là nói đảo lộn, hoàn toàn trái ngược với chỉ ý của Phật, phá hoại Phật pháp nghiêm trọng, còn không thể giữ được thân người ở kiếp sau, nói gì đến chuyện có thể nhập vào đại giải thoát? Sao có thể nói đó là “Kim Cương thừa đại lạc”? Chỉ những người dựa theo tà kiến, tà hành mà tu Song thân pháp này mới là “những người vì muốn cầu giải thoát ở đời sau và an lạc ở đời này mà tạo ra ác nghiệp thuần khổ cực nặng trong vô lượng kiếp sau”, ngu si đến mức độ tột đỉnh như vậy, không còn có ai hơn được nữa.

Thầy của Thượng sư Trần Kiện Dân – Thượng sư Cống Cát Kim Cương – truyền cho Trần Kiện Dân pháp tu Lạc Không song vận như sau:

“Kim Cương Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo Chương 9, tha thân Sự nghiệp thủ ấn: Kính lễ trước tôn tượng của Bạc Già Phạn Hách Lỗ Hát: Với tu trì tối thù thắng của Mật tông, để tăng trưởng duyên khởi Kim Cương tâm yếu, thân nên chuyển thành Kim Cương vô chuyển, sự giáo huấn này từ Kim Cương Hợi Mẫu, thâm sâu truyền tai tu trì như vậy, người có năng lực nguyện được khẩu quyết này, trong Tam muội da phải bí bí bí.

Hành giả Kim Cương thừa, vì để tăng trưởng trí tuệ, để tăng lực cho khí, mạch, Minh điểm, người nào có khả năng để Minh điểm không thoái thất (lậu rớt, xuất tinh) thì mới dạy cho người đó: Với Sự nghiệp thủ ấn đầy đủ tướng, cần nên tinh tấn tu trì, an lạc ở đó. Tổng quan chia thành năm mục: Thứ nhất, quan sát Thủ ấn; thứ hai, câu chiêu; thứ ba, thành thục; thứ tư, tu trì; thứ năm, chỉ thị công đức và chứng quả.

  1. Quan sát ban đầu: Trong cuốn “Liên hoa toàn tục” viết: Tướng Mật trong ngoài phải vẹn toàn, theo thời gian mà phân biệt rõ người có lòng tin lớn đối với Phật, có lòng tin đối với người Du già, không chán ngán đối với đại an lạc vân vân. Về ngoại tướng: Sắc mặt đoan chính, tuổi nhỏ vừa ý, có mùi thơm, nhan sắc trong trắng có hồng, eo thon, thân lớn nhỏ tương xứng, mắt dài và lòng trắng đen phân minh, dưới mắt nên có màu hồng, phát quang trạch như tơ, răng trắng không hở, mắt khéo liếc nhìn, có tham dung đầy đủ (mặt dâm), e thẹn như không dám nhìn thẳng người khác, eo đeo hựu toàn, lúc đi chân trái bước trước, như hoa sen xoay chuyển trên mặt đất, bước đi tự nhiên, vẽ năm loại thủ ấn trang nghiêm, tâm nặng ái nhiễm, nhìn thấy là khiến người ta an lạc, đó là tổng tướng.

Biệt tướng có Phật Mẫu chủng tính liên hoa, môi như cánh sen, tay trắng tựa tuyết, tóc đen nhanh, sắc thịt hơi đỏ. Quan sát từ phía sau, dáng hơi cúi đầu; nhìn từ phía trước, tựa như ngẩng đầu; nhìn từ hai bên, như nghiêng người. Eo nhỏ, hông dưới hơi rộng; khi đi như vẽ hoa sen dưới mặt đất, đó là người có chủng tính liên hoa đầy đủ.

Người có nội tướng hiển hiện từ ngoại tướng: Trước trán có Minh điểm, là Thân Kim Cương; Hầu có Minh điểm là Ngữ Kim Cương; Tâm có Minh điểm là Ý Kim Cương. Giữa hai hàng lông mày hoặc giữa rốn có Minh điểm là Công đức mẫu, Sự nghiệp mẫu; hoặc ở năm chỗ đó có ba vạch thẳng cũng vậy.

Về nội tướng: Tâm rộng rãi, không nói nhiều, ít lòng đố kỵ, có thể chấp nhận Mật pháp, lòng tin kiên định, ít có lòng tham đối với tiền tài của hành giả, không bị người khác dụ dỗ về những gì đã được khuyến cáo.

Về Mật tướng: Liên hoa (âm đạo) thật khít, có khí ấm, đầy đặn và nhô ra ngoài, có khả năng ngậm chặt chùy (dương vật); Xương hông rộng, mông nhỏ, thịt phát triển vào trong. Miệng hoa sen (âm hộ) khép sát vào thịt, cánh hoa đầy đặn, khi lấy chùy chạm vào đó, hoa sen không chịu nổi phải phát ra âm thanh e thẹn. Nếu như đâm rút chùy mạnh hơn thì toàn thân ưỡn lên, trong hoa sen phát hơi ấm và ẩm ướt.

Về quan sát chân thực: Có lòng tin đối với Mật tông, đặc biệt là tin tưởng với hành giả; trí tuệ quảng đại, có khả năng nhận biết pháp và phi pháp; tâm lượng rộng lớn, có thể dung nạp Mật pháp; lời nói cẩn thận, không phỉ báng người Du già, mà hết mực cung kính, làm theo những gì Du già sĩ nói, phụng hành thật khéo, có thể khiến cho an lạc tăng trưởng.

Về tướng nhìn thấy và tiếp xúc có thể sinh an lạc: Với nội thân tư nhuận của người nữ ấy, chỉ hơi tiếp xúc (va chạm) thân thể là đã cảm thấy an lạc (khoan khoái trong lòng), tâm cũng dễ hiển thị thể tính không ô nhiễm vốn dĩ; Dù chưa có chính kiến nhưng cũng đã rất an định, cùng đi với nhau cũng sinh an lạc; khéo biết quan tâm săn sóc, lại thường cả thẹn, tinh tấn hành sự, nghe lời phụng hành, nói năng vừa ý; lúc đi đứng, làm việc đều toát lên vẻ nhàn nhã, cực kỳ tinh tấn đối với Phật sự.

  1. Câu chiêu: (Đoạn này không khác gì với phần mà Liên Hoa Sinh đã nói, nên ở đây lược bỏ).
  2. Thành thục: Sau khi đắc Sự nghiệp Thủ ấn (tìm được Minh Phi), làm quán đỉnh cực kỳ thâm mật cho người nữ ấy, để cho cô ấy được thành thục (thấm nhuần) thì bắt đầu khai thị đạo Giải thoát thâm sâu, có thể nói lợi ích của thứ tự tu đạo quán đỉnh thứ ba, vạn nhất không được tương hợp với tà kiến của Thế gian pháp, khiến cho người nữ ấy chuyển nhập vào Phật pháp. Người nào tâm lượng còn nhỏ thì phải dạy cho rộng mở hơn, sinh lòng kiên định hiểu biết về sự nghiệp, nói cho người ấy biết Tham đạo phương tiện thậm thâm (giải thích cho Minh Phi hiểu về đạo Đại tham phương tiện thâm sâu của Song thân pháp), đồng thời dùng vật chất (kiêm dùng Minh điểm vật chất – tức là tinh dịch của bản thân) và chú lực để khiến cho người ấy trở thành pháp khí Sự nghiệp thủ ấn (khiến cho Minh Phi đó trở thành Sự nghiệp thủ ấn có thể hợp tu Song thân pháp). Sau đó nên hiểu biết rằng tất cả các pháp thánh phàm đều sinh ra từ Minh điểm không thoái thất (lậu rớt, xuất tinh). Về khẩu quyết không thoái thất mà tăng trưởng này, cần tìm đến căn lều yên tĩnh, thỉnh mời Dũng Phụ Dũng mẫu, không cho người ngoài nhòm ngó vào, đưa “cụ tướng sự mẫu” tẩy rửa thân thể trang nghiêm (đưa Sự nghiệp Không Hành Mẫu có đầy đủ tướng tốt đi tắm rửa và làm các công việc trang điểm), xức dầu thơm, đeo túi thơm; Duỗi chân của mình trên đùi trần của người nữ, ôm nhau mà hôn. Lấy cổ tay ôm đầu người nữ, dùng tay ve vuốt, mân mê môi lưỡi, bóp vú, nhìn Mật xứ (âm hộ); dạy người nữ cầm chùy, tận lực thể hiện phương tiện sinh khoái lạc (bảo người nữ cầm lấy dương vật của nam hành giả Mật tông, ra sức làm các động tác ve vuốt, tạo ra khoái lạc cho nam hành giả bằng các kỹ xảo). Nếu khi hành sự mà sinh ra phân biệt trong tham dục, thì nên nhận thức rõ rằng cái Tham vốn dĩ không có thể tính thực tại (không có tính vật chất), đó là sự tùy ý vận hành của pháp. Tức là nhận thức được diện mạo vốn dĩ của nó khi chưa đoạn Tham, mà an trú ở Căn bản định. Các loại tham dục thông thường cần lập tức xóa bỏ hoàn toàn, tinh tấn tu trì để hiển hiện phương tiện an lạc.

Sau đó, mình và người ấy gia trì, bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm thù thắng, quán tất thảy pháp không, trên không hiện ra giường nằm, tức là liên nhật luân, trên luân tự hình thành Bản tôn, có một mặt hai cánh tay, hiện tiền quán tưởng sinh khởi. Quán vô duyên ở Mật xứ (chỗ kín) của mình, trong sự vô duyên đó hiện ra Mật chùy (hiển hiện ra dương vật), trên chùy hiện Hồng (trên dương vật xuất hiện chữ Hồng), Hồng này chuyển thành năm bộ chùy. Trên không trung hiện ra chữ Hồng màu lam, đầu hướng vào trong, đầu nhọn có chữ Phi, màu vàng đỏ hướng ra ngoài. Phật Mẫu trong sát na biến thành Hợi mẫu (khi hoàn thành quán tưởng giai đoạn này, Minh Phi trong một sát na đó tức thì trở thành Hợi mẫu), một mặt hai tay, trang nghiêm đầy đủ, cực an lạc vui vẻ, đầu vú nhô ra (núm vú căng ra), Mật liên đầy đặn (phì ra), an lạc không thể chia bớt.

Hiện (quan sát, quán tưởng) Mật xứ vô duyên, trong vô duyên đó tái hiện hoa sen bốn cánh (âm hộ bốn môi lớn nhỏ), bên trong lại hiện hoa phôi (âm vật - mồng đốc) được trang nghiêm bằng chữ A. Tại mỗi mạch luân trong thân, tưởng thành Dũng Phụ, Dũng mẫu (trong ngũ luân ở Trung mạch của Minh Phi, quán tưởng mỗi luân đều có Dũng Phụ giao hợp với Dũng mẫu), giống như Mật pháp (cái được quán tưởng ra này giống với cái quán tưởng trong Mật pháp đã nói ở đoạn đầu[2]). Sau đó, nhằm vào chữ A trên liên phôi, dùng chùy của Phật Phụ đâm xuống (sau đó dùng dương vật của mình xúc vào trên chữ A ở âm vật). Làm một lát (làm như thế một chút), định ở trên Căn bản định bản lai thanh tịnh ly hý (Định tâm ở trên “Căn bản định” vốn dĩ thanh tịnh và “ly hý”, sau đó) lắc vặn rùng mình toàn thân như con dê (để cho lạc xúc đạt đến độ cao trào nhất), sự an lạc đó như thác chảy xuống (nhờ đại lạc này mà khiến cho tinh dịch đổ xuống như thác). Phải như nông dân làm ruộng, lấy cuốc đào rãnh dẫn nước, không để cho nước chảy ra ngoài (lúc này dương vật phải như nông phu dùng cuốc đào rãnh dẫn nước, không được để tinh dịch và dâm dịch của Minh Phi trào ra ngoài), chỉ được nhập vào trong rãnh mà giáng hạ xuống các luân, hiến Tứ không hành (chỉ có thể dẫn tinh dịch nhập dòng mà giáng vào trong các luân, phụng hiến cho Dũng Phụ Phật Mẫu tứ không hành). Mật tu như thế ở các luân đều phải rung lắc, Minh điểm không lậu rớt làm đầu (Pháp Mật tu như thế, phải rung lắc ở các luân, cốt yếu là không được để dâm dịch chảy ra ngoài). Sau đó, khi an lạc giáng xuống Mật xứ, quan sát như trước đó, cúng Mật luân không hành (cuối cùng đưa lạc xúc giáng xuống hạ thể, lại phát sinh ra an lạc, rồi cũng lại quan sát như trước để cúng dường cho Dũng Phụ Không Hành Mẫu trong Mật luân).

Về trì thiện xảo, như cửa cống nước trong cái ao. Loại thượng đẳng là trì nó ở trên kiến thể vốn dĩ lìa tất thảy mọi hý luận; loại trung đẳng là dùng khí để trì. Trì thượng hành khí, như trong bình có lỗ thủng; trì hạ hành khí thì cái xuất ra có thể lại nâng lên; trì trung trụ khí, tức là ở Tề luân, hơi chướng ra ngoài. Về quán tưởng, người lợi căn thì quán tất thảy bản lai thanh tịnh kiến; người trung đẳng thì quán trên đỉnh đầu có chữ Hãn, như cái cọc buộc ngựa; người hạ đẳng thì tưởng tượng trên đỉnh có Dũng Phụ, thượng sư như ánh sáng pha lê.

Người mới tu hành, có thể lập tức xuất ra ngay, cho nên phải biết mạch yếu, dùng ba ngón tay như cái thang để ấn vào nó (Thượng sư Trần Kiện Dân xét: ấn vào giữa nhị âm trước sau, tức là chỗ Hội Âm hoặc đầu mũi. Cái mà gọi là “đầu mũi” ở đây tức là chỉ đầu chùy, còn chìu là mũi dưới). Người thiện xảo nghịch hành như xe nước nước xe, trong chùy quán có chữ Hồng, lấy nó để câu móc vật thanh tịnh chữ A trong liên (hoa sen), niệm âm Hồng dài hít nhập vào trong chùy, cúng dường các Bản Tôn ở Mật xứ (miệng niệm âm Hồng dài, dùng khí công hút tinh dịch và dâm dịch trong âm đạo người nữ quay về hạ thể của mình rồi quán tưởng cúng dường Bản Tôn trong hạ thể của mình). Tiếp đến hít chữ Hồng này, men theo Trung mạch truyền nhập vào thượng sư trên đỉnh đầu, cúng dường Liên Hoa Sinh đại sĩ, phụ mẫu, như Kim Cương trì mà cúng hiến.

Về Thân yếu [3]chỗ này: Tứ châu thu vào Tu Di (Thượng sư Trần Kiện Dân xét: Tứ châu tức là tứ chi, thu vào Tu Di là chỉ co vào phần lưng). Như rồng gặp Tu Di, nhật nguyệt chầu trời (Thượng sư Trần Kiện Dân xét: tức hai mắt đảo lên trên). Lưỡi cuộn đẩy ngạc trên, địa các (ngạc dưới) ép hầu kết. (Lúc giao hợp, nếu) tất cả thân phần không thể sinh an lạc thì nên rùng lắc, có thể khiến cho sinh lạc.

 

 

 

 

 

 

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg