The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 3: Tu thành Hồng Quang thân nhờ vào Vô thượng Yoga -2

 Thứ năm, người muốn lìa bỏ đầu thai thụ sinh và miễn khỏi luân hồi sinh tử cần phải bắt đầu từ lìa xa tham trước dâm lạc để thoát khỏi sinh tử ở Dục giới, khi xả thọ có thể sinh lên đến Sắc giới thiên, coi đó là mục tiêu đầu tiên để bắt tay thực hiện. Chứ không phải là thực hiện Lạc Không song vận trong dâm lạc để trải nghiệm Lạc Không bất nhị là có thể thành công. Nếu người nào mà vẫn còn lạc thụ dù chỉ là tơ hào đối với dâm lạc mà nói anh ta không sinh lòng tham trong dâm hành, hành vi hoàn toàn trái ngược với đạo lý thủ chứng Báo thân trang nghiêm ở Phật địa như thế tuyệt đối không thể nào thành tựu Báo thân trang nghiêm ở Phật địa thông qua tu tập Không Lạc Đại thủ ấn. Cho nên, việc Mật tông dựa vào tu tập Minh Không hoặc Không Lạc Đại thủ ấn để cầu mong thành tựu Báo thân trang nghiêm ở Phật địa hoàn toàn chỉ là vọng tưởng.

Thứ sáu, Ý sinh thân xưa nay không phải do đầu thai mà có, cho nên thuyết đó của Mật tông hoàn toàn hoang đường. Trong ba loại Ý sinh thân, bất luận là loại nào, cũng đều do thiền định (không phải là thiền định đẳng chí Song thân pháp của Mật tông) và trí tuệ Vô sinh pháp nhẫn sinh ra, không phải nhờ đầu thai mà có được. Những người trong Mật tông còn không biết gì về Tổng tướng trí Bát Nhã nông cạn nhất, huống hồ có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn mà sinh khởi Đạo chủng trí? Những người hoàn toàn không biết gì về Bát Nhã như thế sao có thể chứng được Ý sinh thân? Thế mà lại đem tà kiến hiểu sai về Ý sinh thân ra để vần chuyển, vứt bỏ cả Ý sinh thân thắng diệu, thật đúng là những kẻ vô trí tuệ. Bồ Tát bậc Cửu địa có đầy đủ cả ba loại Ý sinh thân mà vẫn chưa phải là viên mãn, phải đến Phật địa mới được viên mãn. Đó là các Ý sinh thân thành tựu nhờ vào phúc đức của ba đại vô số kiếp, sau khi thành Phật thì vĩnh tồn bất diệt, là pháp mà tất thảy Bồ Tát cần nên tinh tấn mong cầu, chứ không phải là pháp cần phải vứt bỏ như Mật tông nói. Các thày Mật tông không hiểu Phật pháp, loại giải một hồi, dẫn dắt chúng sinh sai lầm đến mức nghiêm trọng, quả báo sau khi xả thọ không thể nghĩ bàn.

Thứ bảy, việc quán tưởng chữ chủng không thể nào thành tựu bất kỳ chứng lượng Phật pháp nào, duy chỉ có thể dựa vào thần hộ pháp có duyên với anh ta hoặc thần lực của chư Phật Bồ Tát gia trì thì mới miễn trừ được tai nạn lập tức, khiến cho hành giả có thể yên tâm tu hành mà thôi. Người muốn thành tựu chứng lượng trên Phật pháp, buộc phải dụng tâm cầu chứng trí tuệ Giải thoát và trí tuệ Phật Bồ Đề thì mới chứng được. Việc này tất thảy hành giả Mật tông đều phải nên biết rõ. Nếu không tin lời tôi nói, dù có tu đến ba mươi hay năm mươi năm sau, thì vẫn không thể nào hiểu biết được nghĩa lý chân thực của đạo Giải Thoát Tiểu thừa và đạo Phật Bồ Đề Đại thừa. Tôi nay có thiện ý nói trước, để giúp ích cho các hành giả có trí trong Mật tông suy nghĩ cho thật kỹ lưỡng.

Thứ tám, việc tu luyện quán tưởng Trung mạch Minh điểm, thiên thân, Bảo bình khí, Chuyết hỏa và quán tưởng chữ chủng, bọc nước, thân không…đều không thể nào chuyển được sắc thân huyết nhục vật chất thành quang thân mà thành tựu Hồng quang thân. “Cái thân tựa như bọc nước” được mô tả tựa như thiên thân lúc chứng đắc Sơ thiền, nhưng vẫn khác với thiên thân Sơ thiền. Năm xưa (sau khi phá tham không lâu), tôi đã sớm thành tựu thiên thân Sơ thiền, trong thân như mây như mù (đặc hơn mù trắng, nhạt hơn mây trắng cao không lúc trời quang), không có lục phủ ngũ tạng và dâm căn (bộ phận sinh dục), da tựa như một lớp màng nilon (loại bọc thức ăn) cực mỏng và có các lỗ chân lông cực nhỏ. Các lỗ chân lông đó trong ngoài tương thông, từng lỗ đều có lạc xúc. Những cái đó đều dùng tâm nhãn mà nhìn thấy, không phải là dùng nhục nhãn mà nhìn được. Sau đó, bất kỳ lúc nào bất cứ nơi đâu cũng đều có lạc xúc xuất hiện ở xoang ngực, tự cảm nhận thứ lạc đó. Sau đó, lạc xúc chuyển tiến theo thiền định, dần dần thay đổi, cũng là một sự diễn biến phát triển tự nhiên, tăng tiến theo thời gian, không cần phải cố ý tăng cường vận hành nó.

Người học nên biết rằng: việc chứng đắc thiên thân ở Sắc giới là do lìa xa được cái tham dâm xúc ở Dục giới, cộng với chứng đắc Sắc giới định mà thành tựu, không phải là nhờ quán tưởng mà có thể thành công. Việc thành tựu Báo thân trang nghiêm ở Phật địa là nhờ thành tựu tất thảy thiền định tam muội trong Tam giới và có Vô sinh pháp nhân đầy đủ viên mãn, cộng với tu tập vô lượng phúc đức mà thành, chứ không phải nhờ quán tưởng mà có thể giành được. Cho nên, người nào muốn cầu chứng Báo thân trang nghiêm, phải bắt đầu từ Trung quán Bát Nhã, Nhất thiết Chủng trí, vô lượng thiền định tam muội (không phải là Tam muội da của Mật tông), và tu tập tích lũy vô lượng phúc đức mới thành tựu. Tu học Phật pháp như thế, mới là con đường đúng đắn để tu chứng Báo thân trang nghiêm. Người nào bỏ tu cái này mà thực hành quán tưởng của Mật tông, đều gọi là “cái tưởng của người vọng tưởng”, không phải là chính tu trong Phật pháp.

Thứ chín, thân Hồng Nghê chính là thân bảy màu hoặc năm màu, không phải là Phật thân. Báo thân của Phật đều là kim quang minh thân, không phải là thân bảy màu. Tôi quan sát theo chứng lượng của mình là biết thân Hồng quang chỉ là ánh sáng yêu thích từ vọng tưởng của quỷ thần. Khi tôi chứng được trí tuệ Bát Nhã, kim quang mới bắt đầu hiển phát. Sau vì chứng được thiền định, nên trong kim quang có xen tạp bạch quang rất mãnh liệt. Vì cùng với thời gian tăng tiến của Bát Nhã nên khiến cho kim quang dần tăng mạnh, cùng với việc phiền não ngày càng giảm thì thiền định cũng ngày càng tăng, nên bạch quang cũng ngày càng tăng trưởng, nhưng không hề có xen tạp ánh sáng bảy màu, năm màu hay tạp sắc.

Đó là quá trình kinh nghiệm bản thân, dần dần biết được thứ tự và nội hàm của Phật đạo. Vì từ tu chứng Nhất thiết Chủng trí mà chứng đắc Đạo chủng trí, dần có thể biết được nó. Lại nhờ có tu chứng thiền định mà dần biết được chính lý (đạo lý đúng đắn) chứng đắc thiên thân ở Sắc giới. Qua đó thì biết thuyết tu chứng Hồng quang thân của Mật tông chỉ là hư vọng tưởng mà thôi. Người học có trí cần nên suy xét thấu đáo, chớ có rơi vào trong tà kiến của Mật tông, lãng phí sinh mạng và thời gian để đi nhầm vào trong pháp ngoại đạo, một đời không thành lại còn thành tựu nghiệp địa ngục đại vọng ngữ, được không bù mất. Nhất nhất đừng có khinh suất!

Thứ mười, pháp tu theo lời Mật tông kỳ thực không thể nào thành tựu Hồng quang thân vì pháp môn tu hành của Hồng quang thân của họ chỉ là vọng tưởng mà thôi. Cho dù có pháp nào đó có thể khiến cho hành giả Mật tông thực sự tu được Hồng quang thân đi chăng nữa, thì vẫn chỉ là pháp ngoại đạo, vì Hồng quang thân không phải là Báo thân trang nghiêm ở Phật địa, không phải là Ý sinh thân của Bồ Tát. Với cái tưởng hư vọng như thế mà nói pháp “yoga bất tử, Hồng quang thân bất tử” của Liên Hoa Sinh là Phật pháp, thực sự chỉ là những lời vọng ngữ (dối trá), đối với tu hành Phật pháp mà nói, tuyệt đối không có thực nghĩa.

Thứ mười một, lại nữa, nếu như trước khi chết mà Liên Hoa Sinh đã thực sự chứng được Hồng quang thân, và theo lời của Mật tông: “người chứng được Hồng quang thân là đem các cơ quan nhục thể của mình chuyển hóa thành quang thân mà trở thành thân phi vật chất”, không phải như các Bồ Tát bên Hiển giáo khi chứng được thiên thân Sắc giới thì đồng thời vẫn có sắc thân thô nặng của Dục giới, thì lẽ ra trước khi Liên Hoa Sinh chết đã không còn nhục thân nữa, vì nhục thân đã chuyển hóa thành quang thân rồi. Nhưng nay xem ghi chép trong các tài liệu cổ thì thấy: cho đến những năm cuối đời, Liên Hoa Sinh vẫn thọ dụng nữ sắc và hành pháp dâm lạc song thân. Nếu như là người có Hồng quang thân thực sự, thì đã không còn thân máu thịt vật chất nữa rồi. Nếu là người không còn thân thịt thì không thể nào cùng hành pháp môn dâm lạc hợp tu song thân với những người con gái thế gian Dục giới nữa.

Liên Hoa Sinh một đời thường hay hợp tu Song thân pháp với người nữ để “lợi ích nữ nhân”, như thế là biết khi ông ta giao hợp vẫn phải có nhục thân, không phải là thân Hồng quang rồi. Như thế mà nói Liên Hoa Sinh sớm đã tu thành Hồng quang thân, lời nói trước sau mâu thuẫn, không hề khớp với sự thực và chính lý. Nếu nói Liên Hoa Sinh còn giữ được nhục thân của mình, chỉ đến khi chết mới biến hóa nhục thân thành Hồng quang thân thì thuyết pháp về tu hành Hồng quang thân nói ở trên hiển nhiên là đã trái với lý Liên Hoa Sinh lúc chết mới biến nhục thân thành quang thân, lời nói tự mâu thuẫn với chính mình.

Lại nữa, phàm là người có sắc thân huyết nhục, muốn diệt trừ vật chất trong nhục thân của mình, buộc phải hỏa thiêu, rời khỏi lửa là không thể hóa được. Đó là định luật của vật chất, không có bất kỳ vật nào có thể trái với lý này, cho nên buộc phải dựa vào ngoại hỏa hoặc nội hỏa thì mới có thể hóa mất nhục thân, không có bất cứ người nào có thể đứng ngoài lý này cả. Thậm chí cho đến khi thành Phật, cũng vẫn không đứng ngoài lý này, vẫn phải dùng nội hỏa do sức mạnh thần thông của mình hiện ra mà hóa nhục thân đi, vì nhục thân là sắc pháp thô nặng của Dục giới. Qua các chính lý này, có thể thấy Hồng thân bất tử của Liên Hoa Sinh mà Mật tông nói kia chỉ là sau khi thời gian dần trôi, lấy sai truyền sai để tiêm nhiễm, phụ họa truyền thuyết, lấy đó để trùm đầu chúng sinh khiến họ tin theo mà thôi, chứ không hề có Hồng quang thân thực sự nào để nói.

Thứ mười hai, những người như Liên Hoa Sinh trong Mật tông, đến thiên thân Sắc giới ở Sơ thiền còn chưa thể chứng đắc, mà ngoa ngôn nói có thể chứng được Báo thân trang nghiêm ở Phật địa, coi Hồng quang thân là Báo thân trang nghiêm ở Phật địa. Những gì họ nói chắc chắn là hư vọng, không thể tin theo. Vì sao vậy? Vì chư Phật đều tất có đầy đủ Tứ thiền Bát định, không gì không có, mà đó chỉ là thành tự tu chứng cơ bản trước Phật đạo. Trong ngoại đạo tuy cũng có nhiều người chứng được Tứ thiền Bát định thật, nhưng tất thảy đều bị Phật phủ định, nói các cảnh giới đó đều không phải là Niết Bàn.

Nay quan sát một đời của Liên Hoa Sinh, thấy ông ta chưa từng đoạn dâm hành, còn dạy người ta pháp thủ dâm để tu hành tinh tấn cả đời, thậm chí đến ấu nữ (bé gái) do con khỉ nuôi ông ta cũng lâm hạnh thưởng thức, thì đủ biết rằng cho đến trước khi chết, ông ta chưa hề chứng được Sơ thiền. Người muốn chứng đắc Sơ thiền, nhất định trong lòng phải đoạn trừ tham hành ái dục nam nữ ở Dục giới thì sau mới có thể chứng được. Liên Hoa Sinh còn chưa đoạn được Dục giới tham, cả đời cầu mong thứ dâm lạc chí cao vô thượng - Đệ tứ hỷ - thì không thể nào chứng được Sơ thiền. Trong các truyện ký và văn từ nói về pháp môn tu hành do chính ông ta viết cũng cho thấy rõ Liên Hoa Sinh chưa hề đoạn Dục giới tham, đồng thời cũng chưa hề chứng được Sơ thiền.

Như vậy, người chưa chứng được Sơ thiền thô thiển nhất trong Tam giới mà nói mình đã chứng được tất cả thiền định Tam muội thì thật vô lý. Người chưa chứng được Tam muội Sơ thiền mà nói đã chứng đắc thiên thân Sơ thiền, tuyệt không thể được. Người chưa chứng được thiên thân Sơ thiền mà nói Hồng quang thân mình chứng được còn thắng diệu hơn cả Ứng hóa thân, Báo thân trang nghiêm, Pháp thân của Phật bên Hiển giáo, liệu có phải là sự thật? Cho nên, việc các thượng sư Mật tông nói Liên Hoa Sinh đã chứng được Hồng quang thân và đã thành Phật đều là những truyền thuyết mê tín, ăn không nói có, dựng thành câu chuyện mà thôi, không có chút xíu nào đáng tin cả.

Thứ mười ba, các thày Mật tông ai nấy đều nói mình đã chứng được Pháp thân, đều là những lời lẽ hư vọng cả. Pháp thân ở đây chính là Thức thứ tám. Pháp thân ở Nhân địa gọi là Thức thứ tám A Lại Da, còn Pháp thân ở quả vị Vô học trong đạo Giải Thoát gọi là Thức thứ tám Dị Thục thức, còn Pháp thân Phật vị ở Quả địa cứu cánh gọi là Thức thứ tám Vô Cấu thức, đổi tên khác là Chân Như, bản chất vẫn là Thức thứ tám. Tuy rằng Thức thứ tám ở Vô học vị trong đạo Giải Thoát phương tiện thuyết gọi là Thức thứ chín, nhưng vẫn là tâm thể Thức thứ tám ban đầu, chỉ có gọi tên khác mà thôi, chứ không hề thay đổi tâm thể của nó. Tuy Thức thứ tám ở Phật địa cứu cánh cũng được gọi là Thức thứ mười thì bản chất vẫn là Thức thứ tám, chỉ đổi tên thành Thức thứ mười chứ không đổi tâm thể, vẫn là thể Thức thứ tám, chứ không phải là Phật có mười thức.

Thế nhưng, nay xem các thày Mật tông, trên từ Mai Kỷ Ba, Nguyệt Xứng, Tất Ngõa Ba…của Mật tông Thiên Trúc; giữa đến A Để Hạp, Liên Hoa Sinh, Di Hỷ Tha Gia, Tông Khách Ba, Khắc Chủ Kiệt, Mã Nhĩ Ba, Mật Lặc Nhật Ba, Cương Ba Ba…của Mật tông Tây Tạng; dưới đến Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận, các đại pháp vương, Trần Kiện Dân, Kháp Lô (Kalu), Tông Tát…ngày nay đều không thấy người nào đã chứng được tâm Thức thứ tám. Đã chưa chứng được thân Thức thứ tám thì chỉ là kẻ phàm phu chưa từng chứng được Pháp thân. Như thế mà nói suông về tu chứng Pháp thân, lại coi Hồng quang thân là Pháp thân, hiểu sai Phật pháp đến mức độ nghiêm trọng như vậy, thì sao có thể nói pháp mà Mật tông đang tuyên truyền kia là Phật pháp được? Thế mà lại lấy pháp ngoại đạo hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp để thay thế cho Phật pháp, nói rằng pháp đó còn thắng diệu hơn cả Phật pháp chính pháp Hiển giáo. Điên đảo đến mức độ này, quả thật không khỏi khiến người ta cảm thán khôn nguôi!

Mật tông còn đem Hồng quang thân mà họ tu được để so sánh với Đạo gia, rồi nói nó thắng diệu hơn cả Đạo gia thế này: “Mật pháp tiệt nhiên khác với họ (Chú thích gốc: Đạo gia). Đó là vì ảo thân tu dụ cho quang minh, có nghĩa quang minh, sau khi trải qua song vận, thì có thể thành tựu ảo thân. Tính chất của nó cố nhiên không cần phải xuất thần, cũng không có chia thành âm thân và dương thần. Ảo hóa thân thành tựu xong thì tự thành Bản tôn thân, đến ngay cả Tam muội da thân cũng thành Bản tôn thân luôn, nhưng không rời khỏi nhục thân. Loại hạ phẩm thì quán tưởng thành Bản tôn thân, tự mình có thể nhìn thấy, người khác không thể nhìn thấy được, chỉ có thể hiển hiện trong định, trong mơ. Nếu trong trường hợp tán loạn thì không hiển hiện ra nữa. Loại trung phẩm thì bản thân mình và người khác đều có thể nhìn thấy. Nếu là người vô duyên và không có trí tuệ thì cũng không thể nhìn thấy Bản tôn thân của anh ta, nhưng tự thân nó vẫn có thể chất. Nếu thành tựu loại thượng phẩm, thì bất kể là người nào, dù là có duyên hay vô duyên, có trí tuệ hay vô trí tuệ đều có thể nhìn thấy Bản tôn thân, hơn nữa thân này như Hồng quang[1], tay thông đạt vô ngại [2], như thầy Liên vậy (Đây là lời vọng ngữ. Khi Mật tông nói về các loại tu chứng quán tưởng của thượng sư, phàm nói về người có thể khiến người khác nhìn thấy Bản tôn thân thì đều là những người đã chết rồi. Từ cổ chí kim, Mật tông chưa từng nói về người nào khi họ đang còn sống mà thiên thân, Hồng quang thân do họ quán tưởng ra có thể khiến người khác nhìn thấy để mọi người nghiệm chứng, cho nên chuyện Mật tông nói đó chỉ là những lời lẽ phụ họa, đồn thổi, không lấy gì làm bằng cả). Cho nên, khi ảo hóa thân thành tựu rồi, thì ngay cả Tam muội da thân bên ngoài cũng đồng thời được thành tựu”. (32-469)

Họ còn nói rằng: “Đại sĩ Liên Hoa Sinh vì sao có thể thị hiện tức thân thành Phật? Hơn nữa Tạng Vương có thể lấy tay sờ vào được thân đó, xuyên qua toàn thân, giống như xuyên qua Hồng thân vậy” (34-247). Thế nhưng chuyện Hồng quang thân của Liên Hoa Sinh không phải là sự thật. Những người có trí tuệ cần phải hiểu rằng cái mà họ gọi là Hồng quang thân đó, chỉ là những lời lẽ phụ họa truyền thuyết, vì như trên đã nói, nó hoàn toàn trái ngược với đạo lý về sắc pháp ở Tam giới, vì lúc đó Liên Hoa Sinh vẫn còn hành dâm và tu Song thân pháp với người nữ nữa.

Lại nữa, khi quán tưởng thành công Hồng quang thân, người khác nếu là người có Thiên nhãn thông tuy có thể nhìn thấy được, thì cũng chỉ như chuyện người có Túc mệnh thông biết được tâm tưởng (suy nghĩ) của người khác, còn người bị đoán biết suy nghĩ kia không hề có khả năng đặc dị của Túc mệnh thông. Cho nên cái lý về Hồng quang thân cũng giống vậy, không có gì khác biệt. Còn về chuyện Thượng sư Trần Kiện Dân nói ai ai cũng có thể nhìn thấy Hồng quang thân, cho đến nay vẫn chưa thấy có bất kỳ người nào làm được điều này – bất luận là xem ở kinh sách hay trên thực tế cũng đều vậy cả. Các thày Mật tông xưa nay đều đã như thế, thì có thể phán định rằng thuyết Hồng quang thân của Mật tông chỉ là pháp có được từ hư vọng tưởng tượng, không phải là sự thực tồn tại có thể nghiệm chứng được. Hơn nữa còn là thứ trái giáo bội lý, cho nên những người có trí tuệ không nên mê tín, cần phải suy xét sâu hơn bằng lý trí, để tránh đi lầm đường lạc lối mà không tự biết.

Người học cũng nên biết rằng: Hồng quang thân “có được” nhờ quán tưởng vận khí, nó không phải là cái thân thực sự, chỉ là Nội tướng phần do chính mình quán tưởng mà thành, không liên quan gì đến thiên thân, cũng không liên quan gì đến Phật pháp. Cho nên, Hồng quang thân và Phật thân mà Mật tông nói thành tựu được nhờ quán tưởng đều là vọng tưởng cả.

Căn cứ để nói về tu chứng Hồng quang thân đến từ việc hình thành “Đại Nhật Kinh”. Mà nội dung nói trong “Đại Nhật Kinh” lại không đạt đến Đệ nhất nghĩa đế, song lại vọng ngôn nói đã chứng đắc Đệ nhất nghĩa đế, hoàn toàn khác với lời Phật dạy trong các kinh Tam thừa. Qua đó có thể thấy đó là cuốn kinh do các tổ sư Mật tông của Phật giáo thời kỳ cuối ở Thiên Trúc biên tạo, không phải là lời Phật thuyết. “Đại Nhật Kinh” này đã nêu ra căn cứ tu hành Hồng quang thân như sau: “Cái mê hoặc của Chú Thuật Võng đồng với Đế Thích Võng, như thành Thiên Đạt Bà, tất cả mọi nhân dân ở đó, thân bí mật như thế, không phải là thân cũng không phải là thức. Lại như trong giấc mộng, du ngoạn các thiên cung, không lìa khỏi thân này, cũng không đến chỗ kia. Du Già mộng như thế, hành giả trụ chân ngôn, thân công đức sinh ra đó, thân tướng như hồng nghê (cầu vồng)” (“Đại Chính Tạng” sách thứ 18, trang 33, cột giữa)

Qua lời khai thị của “Phật” Mật tông này, có thể xác nhận rằng cái gọi là thân Hồng nghê kia chỉ là Nội tướng phần tạo thành, không phải là sắc thân thật sự hoặc thân quang tướng mà người khác có thể nhìn thấy được. Bởi cuốn “Kinh” này tự nói rằng nó như du ngoạn thiên cung trong giấc mộng, là thứ mà “thành tựu” nhờ vào việc tu chân ngôn hành trong Du Già mộng. Lại nữa, ánh sáng cầu vồng ngũ sắc bảy màu không phải là ánh sáng thanh tịnh, vì nó tạp chứa các quang tưởng của thế gian, hình thành nhờ tham dục của pháp tu song thân, tất cả các hành giả chớ có vui mừng cầu chứng nó.

Giới Phật giáo ngày nay bị tà tri tà kiến của Mật tông dẫn dắt mà tạo ra cờ ngũ sắc để làm dấu hiệu đại diện cho Phật giáo, kỳ thực đó là thiết kế bắt nguồn từ tà kiến “chia tất thảy các pháp ra ngũ đại, ngũ sắc, ngũ Phật, ngũ Phật Mẫu, ngũ Độ mẫu, ngũ trí, ngũ Bồ Tát…của Mật tông”. Vì thế mà Phật của Mật tông có ngũ sắc, Bồ Tát có ngũ sắc, Hồng quang thân có ngũ sắc… có ngũ sắc. Tất thảy mọi pháp đến Mật tông đều chia thành ngũ sắc, cho đến Tứ trí ở Phật địa vào trong Mật tông cũng cộng thêm “Pháp giới Thể tính trí” là trí tuệ sơ kiến đạo có tầng thứ thấp nhất mà Bồ Tát tu chứng được, lồng vào trong Phật trí để tiện chia thành năm, vọng danh là trí tuệ thứ năm chỉ có ở “Phật” của Mật tông, vọng thuyết rằng đó là trí tuệ mà Phật bên Hiển giáo không có.

Từ sự bày đặt tà kiến như thế, người ta đã tạo ra lá cờ Phật giáo cũng có năm màu, thực tế nó là vọng tưởng được sinh ra từ tà tri tà kiến của Mật tông, không phải là Phật pháp. Phật quang từ xưa đến nay đều không phải là ánh sáng năm màu, Bồ Tát xưa nay cũng không phải là ánh sáng năm màu, thế mà Phật của Mật tông lại có năm màu, Bồ Tát cũng chia thành năm màu, cho nên “Văn Thù Bồ Tát” trong Mật tông bèn chia thành Văn Thù đen, Văn Thù đỏ…Đó đều là pháp do quỷ thần mạo danh hóa hiện ra, xưa nay không liên quan gì đến chính pháp của Phật giáo. Người học nên hiểu rõ về vấn đề này.

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Như “Tập Mật” nói: ‘Từ chân tế khởi lên, nên đắc Vô nhị trí’. Ý nói ở song vận vị như thân cầu vồng nhập vào quang minh, tự thể không thể chia nó thành hai. Trước khi nhập vào quang minh trí, ba tướng đều tịnh cho nên không có nhị thủ, nhưng lúc đó không phải là không có thân tướng. Nếu không phải như vậy, nói không sắc là có đắc, bất biến lạc là vô đắc, thì không hợp đạo lý. Cần phải có các loại tướng hiện, thì mới gọi là có đắc, vào lúc trước khi đắc bất biến lạc của thánh giả, cũng phải có các loại tướng hiện. Qua đó nên biết rằng: khi đó tuy có, nhưng trước khi có Vô phân biệt trí là không có, nghĩa như thế mới không trái ngược nhau”. (21-573)

Câu nói “ở song vận vị như thân cầu vồng nhập vào quang minh” của Tông Khách Ba chỉ là vọng tưởng, vì khi nam nữ hợp tu pháp môn Lạc Không bất nhị, quán tưởng bản thân mình nhập vào trong quang minh, đó tất nhiên là vọng tưởng, giả tưởng. Bởi cái quang minh này chỉ là cảnh giới do Tâm giác tri của mình tưởng tượng ra, nhờ có sự quán tưởng của Tâm giác tri thì nó mới xuất hiện. Mà cảnh giới quang minh này chỉ tồn tại trong Tâm giác tri chứ không nằm bên ngoài Tâm giác tri, thì Tâm giác tri sao có thể dùng pháp quán tưởng để khiến chính mình nhập vào trong cảnh giới quang minh tưởng tượng đó được? Cho nên, Tâm giác tri quán tưởng thân anh ta nhập vào quang minh chỉ là một phép quán giả tưởng: tựa như đã nhập vào trong cảnh giới quang minh, trong khi thực tế Tâm giác tri không hề nhập vào cảnh giới quang minh. Việc này nó giống như trong cảnh mộng, tựa như có một cảnh giới mà người ta có thể nhập vào, mà thực tế thì cảnh giới đó chỉ là cảnh giới Nội tướng phần cho Thức thứ tám biến hiện ra thôi, y hệt như cảnh giới đái chất trong mộng cảnh, không phải là cảnh giới thực sự trong Tam giới có thể thành hiện thực bên ngoài giấc mơ mà có tính dụng của nó được. Người học trong Phật môn cần phải hiểu rõ lý này, như thế mới có thể tránh được việc đang nằm trong nhân sinh đại mộng lại tiếp tục nằm mơ chồng lên giấc mơ như các thày Mật tông xưa nay vẫn làm.

Lại nữa, theo ý đoạn văn trên của Tông Khách Ba, Hồng quang thân chỉ là thứ chứng được trong chí lạc, Lạc Không song vận của Đệ tứ hỷ dâm lạc nam nữ trong tu tập Song thân pháp, thì cần hiểu rằng bản chất của Hồng quang thân chỉ là pháp thành tựu chung nhờ quán tưởng và dâm lạc. Qua đó có thể thấy bản chất của pháp Hồng quang thân này chỉ là pháp trong Dục giới, còn chưa vượt qua tầng nhân gian ở Dục giới, càng không vượt qua sáu tầng trời Dục giới, vì dâm dục trong sáu tầng trời Dục giới đều nhạt hơn chúng sinh ở nhân gian. Như vậy, người “chứng được” Hồng quang thân, cảnh giới của anh ta không thể nào đạt đến Sơ thiền thiên, huống hồ có thể vượt qua được Sắc giới, Vô sắc giới? Pháp không thể vượt qua Dục giới, còn chưa biết tý gì về quả chứng giải thoát của A La Hán Thanh Văn, mà nói người “chứng được” Hồng quang thân có thể vượt qua cảnh giới của chư Phật bên Hiển giáo, thật chẳng khác gì những kẻ vô trí tuệ như học sinh tiểu học nói “cảnh giới trình độ toán học của nó cao hơn trình độ của các giáo sư khoa Toán trường đại học” vậy. Những người có trí tuệ đọc xong đoạn phân tích này, nên tự biết lựa chọn chính tà nơi nào, qua đó mà lựa chọn và sinh ra trí tuệ thế tục, đồng thời tự xây dựng con đường chính tri kiến của Phật pháp cho mình.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Hồng quang ở đây không phải là ánh sáng đỏ thông thường mà là ánh sáng cầu vồng.

[2] Chú thích của người dịch: Ý nói tay người khác có thể sờ vào được, không bị chướng ngại gì.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31500


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg