The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Các thày Mật tông nhầm tưởng cảnh giới Ý thức là Như Lai Tạng

 Tiết 6: Các thày Mật tông nhầm tưởng cảnh giới Ý thức là Như Lai Tạng

Các thày Mật tông không chỉ phủ định A Lại Da thức là thức thuần vọng, mà còn coi A Lại Da là Ý thức nữa. Lại còn có người phủ định Thức thứ tám và kiếp lập Tâm ly niệm linh tri là Như Lai Tạng nữa, họ không biết không chứng được Như Lai Tạng chính là Thức thứ tám A Lại Da, nói suông về đạo lý Như Lai Tạng (kỳ thực Như Lai Tạng mà họ nói chỉ là cảnh giới do Tâm ý thức quán tưởng mà thành) phi nhất phi dị (không phải là một, cũng không phải là khác biệt) so với thân tâm.

“Nên biết rằng trong Như Lai Tạng này, không chỉ có Như Lai Tạng tâm mà còn có Như Lai Tạng thân. Tác giả (tác giả của “Thậm thâm nội nghĩa” là Nhượng Tưởng Đa Kiệt) tuy từng đề cập đến Kim Cương thân, nhưng còn chưa đem cái vật thuộc ngũ đại sắc pháp đó đồng thuyết minh với tâm. Theo Như Lai Tạng tâm, không phải là chuyên chỉ cái tâm thuộc tâm lý này, hoặc là tâm của Bát thức tâm vương, mà thực tế là tâm triết lý Như Lai, không gì không bao hàm, ngay cả vật chất ngũ đại cũng bao hàm trong đó. Trong Như Lai Tạng không chỉ có tâm, mà cũng còn có vật; không chỉ có vật mà cũng có tâm. Nó vừa không lấy tâm hóa vật, cũng không dùng vật hóa tâm. Diệu thể Chân Như trong Tam ma địa căn bản không có chút phân biệt nào, viên minh an trú, căn bản không có tướng “tâm vật nhị nguyên”, mà có Bản thể tâm vật hỗ dung (dung hòa với nhau). Ở Nhân vị nói triết lý chính kiến, chỉ là thuộc về lục đại du già, tâm vật bất nhị; Tu tâm khí vô nhị ở Đạo vị, tức là căn cứ vào lý này; Ở Đạo vị chứng được thân tâm bất tử, chính là Vô trụ Niết Bàn sinh tử bất nhị, tức là nhục thân phàm phu này thành Phật, không còn có cái nhục thân ngũ uẩn cũ nữa mà thăng hoa đến Hồng quang tụ tán tự tại, ẩn hiện tại duyên. Cuốn sách này (chỉ “Thậm thâm nội nghĩa”) nói về đạo lý Bản thể, không nói đến lục đại du già hoặc thất đại duyên khởi, các chương sau này sẽ nói riêng về khí mạch, Minh điểm, có đề cập chút ít đến cái lý tâm vật, tâm thân bất nhị”. (34-87)

Tuy nhiên, “Thậm thâm nội nghĩa” bình giảng như thế chẳng hề có chính nghĩa chút nào, cũng không phải là nội nghĩa của Phật pháp, thuần chỉ là vọng tưởng sinh ra từ ngoại đạo kiến. Ở đây nói đạo lý thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị chính là “Đại chủng tính tự tính” mà Phật nói trong Nhất thiết chủng trí, đặc tính này chỉ có Thức thứ tám A Lại Da mới có. Mật tông đã phủ định Thức thứ tám A Lại Da (coi) là thức thuần vọng, cho rằng phải diệt trừ nó, thì cái “Đại chủng tính tự tính” trong chính lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị” có thể chứng được này cũng phải theo đó mà đoạn diệt. Mà đã đoạn diệt tính năng này rồi thì liệu có còn lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị” mà nói nữa không? Cho nên, các thày Mật tông đều đứng ngoài Thức thứ tám Như Lai Tạng để lập riêng là một cái Như Lai Tạng tưởng tượng; lại còn đứng ngoài tất cả các chủng tử Tự tính của Như Lai Tạng để nói “hữu sắc” của Như Lai Tạng. Việc đứng ngoài Chân Thực Tâm để nói về các loại pháp tính của Chân Thực Tâm như thế, thì mọi lời lẽ đều không hợp nghĩa lý, chỉ là hý luận mà thôi.

Chỉ có người thừa nhận có Thức thứ tám, thừa nhận Thức thứ tám A Lại Da là Như Lai Tạng và sau khi đích thân tham thiền thực chứng được Thức này thì mới có thể tự mình thể nghiệm được “Đại chủng tính tự tính” của Như Lai Tạng. Người có thể trải nghiệm thực tế “Đại chủng tính tự tính” của Như Lai Tạng A Lại Da thức như thế mới có thể thực sự biết được đạo lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị”. Kẻ phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng tuyệt đối không thể nào hiểu được đạo lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị”, bởi đạo lý này phải dựa vào Tự tính Thức thứ tám A Lại Da mới có, mới tồn tại được. Cho nên, các thày Mật tông đều coi Tâm ý thức ly niệm linh tri là Như Lai Tạng, là Tâm Chân Như ở Phật địa, hoặc coi Minh điểm là Như Lai Tạng, thì sao có thể chứng được đạo lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị” đây? Mà đã dùng Tâm ý thức ly niệm linh tri để giải thích cái lý “thân tâm bất nhị, tâm vật bất nhị” thì mọi giải thuyết đều chỉ là hý luận, bởi mọi lời lẽ đều không đạt đến Đệ nhất nghĩa đế.

Lại nữa, Thức thứ tám – Chân Như ở Nhân địa – tuyệt đối không phải chỉ vô phân biệt ở Tam ma địa căn bản mà nó cũng đều không mảy may phân biệt ở khắp tất cả các thời, chứ không phải như các thày Mật tông nói là nó không chút mảy may phân biệt ở Tam ma địa căn bản đâu. Các hành giả Mật tông đều cho rằng khi Tâm ý thức rơi vào cảnh giới ly niệm linh tri nhất niệm bất sinh, không chuyển theo Lục trần đó là Tam ma địa căn bản, họ hoàn toàn hiểu sai về chân nghĩa Vô phân biệt trí căn bản mà Phật đã tuyên thuyết. Vô phân biệt trí căn bản mà Phật nói ở đây là chỉ việc chứng được Thức thứ tám A Lại Da “đồng thời tồn tại, đồng thời vận hành song song với Tâm ly niệm linh tri”, xác nhận Thức thứ tám A Lại Da hoàn toàn vô phân biệt trong Lục trần từ vô thủy kiếp đến nay. Người như vậy là đã chứng được Vô phân biệt trí căn bản, nên gọi là Căn bản định, bởi chủng tính Bồ Tát Đại thừa từ đây xác định không rời, bởi tâm đắc quyết định ở trong Đại thừa mà quyết không xê dịch nữa.

Mật tông thì lại coi Tâm ý thức trụ ở cảnh giới nhất niệm bất sinh là chứng được Căn bản định, điều này khác xa với việc coi chứng được Thức thứ tám là Căn bản định trong Hiển giáo, nên những lời họ nói sai lầm vô cùng. Vì sao vậy? Vì Tâm ý thức giác tri trụ ở trong cảnh giới nhất niệm bất sinh vẫn là phân biệt, không hề có tính vô phân biệt. Ví dụ khi Tâm giác tri trụ lâu trong cảnh giới nhất niệm bất sinh, bỗng có vị Sư trưởng gọi tên mình, thì lập tức biết ngay Sư trưởng đang gọi, hiểu rằng đó không phải là người khác gọi, cũng không phải là gọi người khác mà là đang gọi tên mình. Sự “hiểu biết – liễu tri” ở đây đều không có vọng tưởng (bằng) ngôn ngữ, văn tự mà vẫn có thể hiểu biết, lẽ nào gọi đó là tính “Vô phân biệt” hay sao? Một khi anh ta đã có “tri” tức là đã có sự phân biệt rồi, sao có thể nói cưỡng là vô phân biệt được? Chẳng đúng lý chút nào!

Tuy nhiên, nld lại khác với sự “hiểu biết – liễu tri” này, bởi nld chưa từng hiểu biết trong Lục trần, từ vô thủy kiếp đến nay nó vẫn luôn lìa kiến văn giác tri trong Lục trần, cũng là pháp xưa nay chưa từng phân biệt, không phải là pháp tu xong thì (biến thànhvô phân biệt. Người chứng được Vô phân biệt tính của Như Lai Tạng như thế vẫn không hề phương ngại đến việc có thể tiếp tục phân biệt của Tâm giác tri, chứ không phải là trụ trong định không khởi phân biệt như là anh ngớ ngẩn đâu. Người chứng được Vô phân biệt tính vốn dĩ của Như Lai Tạng như thế mới là chứng được Vô phân biệt định căn bản.

Các vị thượng sư “Pháp vương” từ xưa đến nay của Mật tông đều đem đặc tính phân biệt vốn dĩ của Tâm ý thức giác tri, cưỡng bức đè ép nó xuống để không cho nó sinh khởi phân biệt. Trong lúc họ tĩnh tọa, khi tự thấy rằng không còn phân biệt nữa, thì kỳ thực vẫn là sự phân biệt. Họ không chỉ hiểu biết được Sư trưởng đang gọi tên mình, mà còn biết mình đang “không khởi phân biệt Lục trần” trong lúc tĩnh tọa, đâu biết rằng chính cái sự “hiểu biết” đó đã là một sự phân biệt rồi, chính cái sự hiểu biết đó cũng không phải là không phân biệt thực sự với Lục trần (bởi anh ta vẫn còn biết được sự thay đổi của Lục trần, vẫn liễu tri Lục trần mà). Các thày Mật tông xưa nay hoàn toàn hiểu sai về chính lý Vô phân biệt Căn bản định trong Phật pháp. Cái lý “trong Tam ma địa căn bản không có chút phân biệt nào” mà họ nói khác xa với những gì Phật giảng, ông nói gà bà nói vịt, không có giao điểm nào, sai biệt so với Phật pháp chân chính đâu chỉ có mười vạn tám ngàn dặm? Đó tuyệt đối không phải là Phật pháp!

Các thày Mật tông từ xưa đến nay rơi vào cảnh giới Ý thức, sau khi ngộ sai đã kiên chấp Ý thức của Tâm ly niệm linh tri là Chân Như ở Phật địa. Với tri kiến sai lầm đó, lại quay mình vu cho những người thật sự chứng ngộ của Duy Thức tông là những người chấp trước Ý thức: “Chính kiến Duy Thức: Đó là những thứ mà bên Duy Thức tông chấp trước vào. Họ bài xích hành giả Tiểu thừa và những người không phải tín đồ Phật giáo. Hành giả Duy Thức tông bài xích sự thực có của Tâm pháp và Sắc tướng (Chú thích gốc: Pháp mà hành giả Tiểu thừa chấp vào), họ tuyên xưng Ý thức là thật. Thế nhưng, họ lại chấp trước vào Ý thức cuối cùng (Chú thích gốc: Thức thứ tám hoặc Tàng thức). Dù cho thức cuối cùng này cũng buộc phải xả bỏ, và coi là Không tính”. (38-456)

Những lời nói trên chẳng khác gì kẻ vừa ăn cắp vừa la làng – tự mình chính là ăn trộm mà lại vu cáo chủ nhà là trộm. Chân Như Phật địa, Như Lai Tạng mà các thày Mật tông nhận định đó đều là Tâm ý thức, nhưng lại biện luận thành Chân Như Phật địa, Như Lai Tạng. Tự mình rơi vào trong Ý thức, chưa đoạn Ngã kiến nhưng lại vu cho “Duy Thức tông bác bỏ Ý thức” là chấp trước Ý thức là thật.

Tất cả các thày trò Pháp tướng Duy Thức tông vẫn thường luôn tuyên thuyết Tâm Ý thức là pháp duyên khởi, nói Ý thức có bốn loại Câu hữu y – A Lại Da thức, Mạt Na thức, Pháp trần, Ngũ sắc căn chưa bị hoại – bốn pháp này nếu chỉ cần khuyết một, thì Ý thức lập tức đoạn diệt, không thể hiện khởi ở nhân gian, cho nên dùng danh từ “Y tha khởi tính – tính chất dựa vào cái khác để được sinh ra” để nói về Ý thức. Thậm chí, đến ngay cả Tâm sở y (nương dựa) của Ý thức – tức Mạt Na thức, Duy Thức tông cũng nói nó là vọng tâm; duy chỉ có nói Thức thứ tám A Lại Da thức phi chân phi vọng. Đó là chuyện mà ai ai cũng biết, vậy tại sao Mật tông tự rơi vào trong Ý thức, coi Ý thức ly niệm linh tri là Tâm Chân Như, tự đọa vào trong tà kiến mà lại vu cho Duy Thức tông tuyên thuyết Ý thức là thật, vu cho chính kiến của Duy Thức tông là tà kiến. Hành vi đảo lộn lời nói như thế, đúng thật là vừa ăn cắp vừa la làng.

Ngoài ra, Duy Thức tông xưa nay đều không bài xích hành giả Tiểu thừa, chỉ nói cái mà hành giả Tiểu thừa chứng được là Giải thoát quả, không chứng được Phật Bồ Đề quả, cho nên không thể thành tựu đạo Phật cứu cánh, không thể quảng lợi vô lượng nhân thiên; chỉ nói Giải thoát quả mà Tiểu thừa chứng được không cứu cánh, vẫn còn tập khí chủng tử Phiền não chướng chưa đoạn tận, cho nên không cứu cánh; duy chỉ bài bác các A La Hán không hồi tâm chỉ một mực chứng thủ diệt độ, không thành Phật đạo, cho nên nói “mầm Phật Bồ Đề” của họ đã cháy, “giống Phật Bồ Đề” của họ đã bại hoại, nên gọi họ là “tiêu nha bại chủng”. Những lời nói như thế không phải là bài xích hành giả Tiểu thừa, chỉ nhằm vào các La Hán Tiểu thừa không hồi tâm sang Đại thừa, sở tu sở chứng của họ không cứu cánh, dựa vào sự thật mà nói, chứ không hề có chút tơ hào miệt thị, vu cáo nào cả. A La Hán Tiểu thừa không hồi tâm Đại thừa nói đến ở đây, họ chỉ biết lợi cho giải thoát cá nhân mà sợ sinh tử đời sau, cũng là dựa vào sự thật mà nói, chứ không hề vu oan, cũng là nhằm để hành giả hiểu rõ được sự khác và giống nhau giữa Tiểu và và Đại thừa, theo đó để hành giả hiểu được nội hàm của đạo Phật Bồ Đề, chứ làm gì có lời lẽ bài xích nào?

Lại nữa, những lời nói như vậy, rải rác có trong các kinh Đại thừa, còn thấy cả ở trong các kinh A Hàm của Phật giáo nguyên thủy. Ở trong các kinh hệ Bát Nhã, Phật cũng nói như thế, chứ không chỉ có mỗi tông Duy Thức là nói vậy, liệu có thể vì thế mà nói Phật bài xích hành giả Tiểu thừa hay không? Nếu ở đây không phải vậy thì ở kia cũng không phải vậy.

Ngoài điều này ra, Duy Thức tông cũng vẫn luôn tuyên thuyết rằng đạo Giải Thoát mà Tiểu thừa chứng được cũng là những thứ mà Bồ Tát cũng cần tu chứng, cho nên khi nói Duy Thức hành trong Duy Thức ngũ vị cũng là nói Bồ Tát cần đoạn Phiền não chướng, cần tu đạo Giải Thoát mà Tiểu thừa tu chứng. Đã nói như vậy, thì sao có thể nói là bài xích Tiểu thừa được? Duy Thức tông cũng nói A La Hán Tiểu thừa là bậc mà tất cả nhân thiên đều ứng cúng, thì sao có thể nói là bài xích Tiểu thừa? Các thày Mật tông không nên nói những lời vu cáo không thật như vậy. Mật tông sở dĩ có thể nói những lời vu cáo như vậy, đều là do hiểu sai về Duy Thức Tăng thượng huệ học gây ra, chứ không phải là do Duy Thức tông từng có những ngôn hành bài xích Tiểu thừa. Bởi lẽ Duy Thức tông nói Tiểu thừa không cứu cánh, Tiểu thừa không thể thành Phật, còn nói A La Hán Tiểu thừa không hồi tâm Đại thừa là tiêu nha bại chủng của giống Phật Bồ Đề…đều là những lời nói đúng sự thật vậy.

Thức thứ tám A Lại Da mà Duy Thức tông nói cũng tuyệt đối không phải là “Ý thức cuối cùng (Chú thích gốc: Thức thứ tám hoặc Tàng thức)” như Mật tông nói, mà là gốc rễ của tất cả các thức (Thất chuyển thức), tức là Căn bản tâm có thể sinh ra tất cả các thức. Mật tông không nên vu cho Thức thứ tám A Lại Da mà Duy Thức tông nói ở đây là Ý thức cuối cùng. Tuyên xưng Thức thứ tám A Lại Da là Ý thức cuối cùng thuần là những lời lẽ vọng thuyết của Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng, chứ không phải là lời lẽ của người Duy Thức tông. Người trong Mật tông luôn cho rằng A Lại Da thức là Ý thức cuối cùng, chứ không hay biết A Lại Da thức chính là Như Lai Tạng mà họ đang muốn chứng lấy, lại còn chủ trương phải diệt trừ nó, nói sau khi diệt trừ Thức thứ tám – không còn Thức thứ tám tồn tại nữa, thế là trở thành tất thảy pháp không, là chứng được Không tính, rồi vọng thuyết thế này: “Dù cho thức cuối cùng này cũng buộc phải xả bỏ, và coi là Không tính”. Chủ trương thuyết pháp như vậy chính là đoạn diệt không, rơi vào trong tà kiến “Duyên khởi tính không của Vô nhân luận (thuyết không có nguyên nhân)” của Trung Quán phái Ứng Thành. Những lời nói đó của Mật tông hoàn toàn trái với lời Phật nói, bởi Thế Tôn nói Không tính là Thức thứ tám “Vô Tâm Tướng Tâm”, bởi “Duyên khởi tính không” mà Phật thuyết là phải dựa vào Thức thứ tám “Danh Sắc duyên Thức” để nói Uẩn Xứ Giới duyên khởi tính không, chứ không phải là duyên khởi tính không mà những người như pháp sư Ấn Thuận kế thừa Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông nói đến sau khi đã phủ định sự tồn tại của Thức thứ tám, bởi duyên khởi tính không nói đến sau khi đã phủ nhận Thức thứ tám là Duyên khởi tính không của Vô nhân luận.

Vì sao lại có cái tên gọi “Duyên khởi tính không của Vô nhân luận”? Là vì nếu không có Thức thứ tám chấp trì tất cả chủng tử để đến đời này, nếu không phải là Thức thứ tám chấp trì nghiệp chủng của chúng ta ở đời trước để đầu thai sinh ra sắc thân đời này, thì nghĩa là Uẩn Xứ Giới của chúng ta ở đời này lìa Căn bản nhân Thức thứ tám để hiện khởi (sinh ra) mà không có nguyên nhân nào hết, tức là chỉ dựa vào duyên cha mẹ để sinh ra, chỉ là pháp “không có nhân làm duyên”, cho nên gọi là Vô nhân luận (Thuyết không có nguyên nhân). Sau khi phủ định Thức thứ tám là Tâm trì chủng (Tâm giữ nghiệp chủng), nghiệp chủng có thể không cần pháp chấp trì nó, đến đời tương lai tùy duyên loạn hiện ở trên thân chúng sinh khác, cho nên gọi là pháp Vô luân luận. Còn Ý thức thì chỉ là pháp duyên khởi, không thể đến được đời sau – có thể quan sát thực tế rằng Ý thức của tất cả mọi người đều không thể nhận biết được chuyện của đời trước, cho nên nó không phải là thức từ đời trước chuyển sinh mà đến, vì thế mà tất cả mọi người sau khi được sinh ra ở nhân gian thì đều phải học lại các pháp thế gian sau khi ra đời, đều không thể nào nhớ lại được những sự nghiệp đã trải qua ở đời trước. Vì duyên cớ đó, nên mới nói những người Mật tông kia phủ định Thức thứ tám mà nói có thể chấp trì nghiệp chủng thụ sinh qua lại ba đời, đều là những người theo thuyết Vô nhân, đều là ngoại đạo kiến cả.

Lại nữa, Mật tông sau khi phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng rồi thì lẽ ra nên chủ trương không có thức thứ chín mới phải, nhưng họ lại lập thêm ra thức thứ chín làm Chân Như Phật địa mà duy chỉ có Mật tông mới có thể chứng được, rồi nói đó là thức mà người trong Hiển tông không thể chứng được, còn nói đó là thức mà Phật của Hiển giáo cũng chưa chứng được, cho nên “Phật” của Mật tông không chỉ chứng được Tứ trí mà còn chứng được hẳn Ngũ trí – Pháp giới thể tính trí: “…Ở đây, dựa vào công dụng của Tâm thức mà hoạch phân làm chín loại: 1. Thức thứ chín, là thức chỉ Mật tục mới có, nó bao hàm tất cả đại trí, đại lực, đại từ bi của Phật quả. Khi hành giả thành Phật, thức này trở thành Pháp giới thể tính trí, không còn Ý thức tính nữa; 2. Thức thứ tám, là thức mà bên Đại thừa coi trọng, hàm chứa tất cả mọi chủng tử thiện ác, từ đó dẫn sinh ra bảy thức còn lại…” (38-697)

Lại còn nói thế này: “Hành giả quán trên đỉnh có Không Hành nữ màu trắng, giống như pháp quán Hợi mẫu. Đặc biệt không quán Hợi nhĩ (Chú thích gốc: Hợi tức là đầu lợn), đặc biệt lấy tư thế thượng phi (bay lên), dùng hai tay nâng hai đùi mở ra ngửa lên trên (Dùng tư thế này để hiển thị rõ âm hộ của Không Hành Mẫu để hành giả Mật tông khi chết phải bắn Minh điểm Pháp thân vào chỗ này), lấy Liên hoa của người nữ (lấy âm hộ của Không Hành Mẫu) cắm vào đầu trên Trung mạch của hành giả. Lúc này, hành giả đã quán toàn bộ nhục thể thành Không, duy chỉ còn lại Trung mạch biểu thị cho Pháp thân, và Khí trí tuệ, Minh điểm trí tuệ trong Trung mạch. Sau đó tu Bảo bình trí khí, trực xung vào Phật thân Minh điểm trí tuệ đại diện cho thức thứ chín Như Lai Tạng, đi qua Trung mạch, (đem Phật thân Minh điểm trí tuệ của thức thứ chín Như Lai Tạng xuất) vào trong Liên cung (tử cung trong âm hộ của Không Hành Mẫu), gọi giả là hoài thai Phật tử, (Phật thân Minh điểm trí tuệ của thức thứ chín Như Lai Tạng của hành giả do Không Hành Mẫu dắt đi) bay vào Phật thổ”. (34-188)

Qua hai đoạn văn nói trên, có thể thấy sự hoang đường của tà thuyết Mật tông, nhưng đó chỉ là một phần trong đó mà thôi. Mật tông chủ trương “Thức thứ chín là pháp mà chỉ Mật tục mới có, không hề có trong kinh Hiển giáo”. Thế nhưng, trong kinh Hiển giáo đã nói từ lâu rồi, chứ không phải là chưa từng nói, thậm chí còn nói thức thứ chín vẫn không phải là Thức cứu cánh, mà Chân Như ở Phật địa – Thức thứ mười Vô cấu thức – mới là Thức cứu cánh. Mật tông từ xưa đến nay vẫn luôn bài xích các kinh điển Duy Thức của Tam chuyển pháp luân. Vì đã bài xích, cho nên các thày Mật tông chưa từng đọc những kinh điển Duy Thức của Tam chuyển pháp luân như thế, không biết Phật còn nói đến tận thức thứ mười, huống hồ bảo chưa từng nói đến thức thứ chín? (Vì Mật tông) không biết, không chứng được Thức thứ tám mà bên Hiển giáo tuyên thuyết, cho nên không biết A Lại Da thức chính là Dị thục thức thứ chín ở quả vị A La Hán, không biết Thức thứ tám chính là thức thứ mười Chân Như ở Phật địa, cho rằng trong kinh Hiển giáo chỉ nói đến Thức thứ tám, thành ra mới có sự hiểu sai và nói những lời bình loạn về Hiển giáo như vậy.

Lại nữa, trong kinh Duy Thức Nhất thiết chủng trí của Hiển giáo có nói tất thảy chúng sinh tổng cộng có tám thức, ở Phật địa cũng vậy, không phải là có chín thức, mười thức thật. Cái gọi là thức thứ chín, thứ mười đều là giả danh bày đặt ngôn từ để hiển thị rõ sự khác biệt của các chủng tử chứa trong Thức thứ tám ở các giai đoạn khác nhau, chứ không hề có thức thứ chín, thứ mười thật sự. Mật tông không hiểu Phật ý, bèn tự phát minh ra “Thức thứ chín là pháp mà chỉ Mật tục mới có”, rồi dùng tà kiến đó để vọng ngôn nói chứng lượng của Hiển giáo thô thiển – chỉ chứng được Thức thứ tám, tự khoe Phật của Mật tông còn chứng riêng được Thức thứ chín, khác với Hiển giáo, còn siêu việt hơn cả Phật của Hiển giáo. Những lời vọng ngôn đó đều bị những người có trí tuệ cười chê.

Lại nữa, Thức thứ tám mà Mật tông chứng được tuyệt đối không phải là Thức thứ tám mà Phật nói. Cái Thức thứ chín mà họ nói đó cũng không phải là Thức thứ chín mà Phật nói, mà là Mật tông hiểu nhầm về Thức thứ tám, thứ chín trong Phật pháp. Đó là Mật tông coi Trung mạch là Pháp thân, lấy Minh điểm làm Phật trí, coi Minh điểm là thức thứ chín Như Lai Tạng, là Phật thân trí tuệ. Những lời thuyết pháp như vậy hoàn toàn không liên quan gì đến Tam thừa Bồ Đề trong Phật pháp, thế mà nói là đã chứng được thức thứ chín, đã chứng được Như Lai Tạng, chứng được Pháp thân, chứng được trí tuệ ở Phật địa. Như thế mà nói thức thứ chín là pháp duy chỉ Mật tục mới có, kỳ thực là lấy tu hành của pháp ngoại đạo, lồng với danh tướng Phật pháp để nhằm thay thế cho tu chứng của Phật pháp. “Chứng lượng” (mà Mật tông) tu được hoàn toàn không liên quan gì đến chứng lượng trong Phật pháp, thì sao lại có thể khinh miệt chứng lượng của những người tu hành Hiển giáo là thô thiển được? Nếu như vậy mà không phải là kẻ cuồng Mật thì ở đâu còn có tín đồ cuồng Mật tông hơn được nữa?

Lại nữa, Pháp thân mà Phật nói đến vẫn là Tâm thức thứ tám, chứ không phải là Trung mạch của Mật tông. Theo đoạn văn nêu ra ở trên, chứng tỏ hành giả Mật tông đã coi Trung mạch là Pháp thân ở Phật địa, thật đúng là râu ông nọ cắm cằm bà kia, căn bản là chưa từng chứng được Thức thứ tám Chân như Pháp thân ở Phật địa (Ở Phật địa, Thức thứ tám đổi tên là thức thứ mười Vô Cấu thức), cũng chưa từng chứng được Pháp thân Thức thứ tám A Lại Da mà Bồ Tát chứng được ở Nhân địa. Nay họ lại coi Minh điểm là Như Lai Tạng, là Thức thứ tám, hoàn toàn không biết Như Lai Tạng mà Phật nói trong Hiển giáo chính là Thức thứ tám A Lại Da. Đã coi Minh điểm là Thức thứ tám như vậy rồi, nhưng có lúc lại nói Minh điểm là thức thứ chín. Các thượng sư phàm phu của Mật tông hoàn toàn không biết, không chứng được Thức thứ tám Pháp thân mà bên Hiển giáo nói và chứng được, hoàn toàn không biết cũng không chứng được Như Lai Tạng, nhưng lại khinh miệt cảnh giới Thức thứ tám Như Lai Tạng mà chư Bồ Tát bên Hiển giáo chứng được là sự tu chứng nông cạn, chỉ là tu hành ở Nhân địa, rồi tự suy tôn sự tu chứng ngoại đạo pháp mà mình chứng được là cao hơn cả sự tu chứng ở Quả địa của tất cả các Bồ Tát trở lên của bên Hiển giáo – là tức thân tu thành Phật quả cứu cánh. Thậm chí còn nói đã chứng được “Pháp giới thể tính trí” mà Phật bên Hiển giáo chưa thể chứng được, thật đúng là những nhân tài giỏi nghề điên đảo thị phi.

Ấy thế mà các đại pháp sư lãnh đạo bên Hiển giáo lại đều nhìn mà không thấy, liên tục nhẫn nhục với họ, ngồi xem Mật tông đem ngoại đạo pháp tà trái hoang đường đó thâm nhập vào trong Phật giáo, thay thế cho Phật pháp chân chính; ngồi xem Phật giáo dần dần bị diệt bởi tay Mật tông từ bản chất, đó chẳng phải là ba phải xuề xòa đến cùng cực hay sao? Thậm chí đến cả pháp sư Tịnh Tâm - cựu Trưởng ban trị sự Hội Phật giáo Trung Quốc (Đài Loan) và pháp sư Thánh Nghiêm của Pháp Cổ Sơn cũng bám duyên với Đạt Lai Lạt Ma của Mật tông, đánh giá cao tà pháp ngoại đạo của Đạt Lai Lạt Ma, coi đó là Phật pháp chân chính, lại còn phụng hiến đóng góp tài chính cho ông ta, để ông ta có thể khuếch trương hoằng truyền tà pháp Mật tông, thật đúng là những kẻ “tòng phạm” trợ giúp cho Mật tông phá hoại Phật giáo.

Còn về pháp sư Ấn Thuận, kỳ thực căn bản cũng là hành giả Mật tông, vì tư tưởng căn bản của ông ta hoàn toàn là Trung Quán phái Ứng Thành của Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng, vì tất cả những tư tưởng của ông ta là duy chỉ có Trung Quán phái Ứng Thành của Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng, bởi ngoại trừ tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành ra, thì ông ta không còn tư tưởng nào khác để nói nữa. Còn những kẻ tôn sùng tư tưởng Ấn Thuận lại hoàn toàn không biết rằng tất cả mọi tư tưởng của Ấn Thuận chính là tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành, hoàn toàn không biết mọi tư tưởng của ông ta duy nhất chỉ có tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành không hơn, thật đúng là chuyện đáng buồn nhất nhất trong Phật môn. Do đó, nên mới nói: “Thời nay chính là thời mạt pháp”.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31468


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg