The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 2: Phái Cách Lỗ là kẻ phá pháp phủ định Như Lai Tạng -2

 Ví dụ Tông Khách Ba nói con người trong giấc mơ vẫn có thể thụ nhận các loại khổ lạc, qua đó để giải thích Tâm ý thức giác tri có thể chịu khổ lạc bên ngoài sắc thân, kỳ thực nó vẫn vẫn không lìa sắc thân, không thể tồn tại một mình bên ngoài sắc thân để chịu các loại khổ lạc.

Con người ta sở dĩ có thể có mộng đẹp và ác mộng đều là do có sự hiện hành của Ý thức. Thế nhưng, sự hiện hành của Ý thức bắt buộc phải có “hữu căn thân” – tức là sắc thân ngũ căn có sinh mệnh, thì mới có thể hiện hành. Vì thế, chỉ có người nào có hiện tượng sinh mệnh bình thường thì mới có cảnh mộng. Nếu như người nào có hiện tượng sinh mệnh dị thường, ví dụ hôn mê hoặc ở giai đoạn chính tử vị, thì Ý thức không thể hiện hành, đương nhiên không thể có giấc mộng. Nếu không có giấc mộng, thì không thể có sự chịu khổ lạc trong mộng. Vì thế, mỹ mộng, ác mộng của con người, đều phải dựa vào thân căn bình thường mới có được, không thể có giấc mộng bên ngoài thân căn. Cho nên, câu nói “có mộng cảnh khổ lạc ngoài thân căn” của Tông Khách Ba chỉ là vọng tưởng, cũng là những lời cả vú lấp miệng em. Nhân gian ở Dục giới mà lìa thân căn thì không thể có lạc thụ trong cảnh mộng, thì làm sao có thể chủ trương lìa thân thì có thể có “diệu lạc bất biến”? sao có thể chủ trương “cho nên chịu khổ lạc không cần phải có thân do vi trần tập hợp”? sao có thể chủ trương “nhờ từ sức mạnh tập khí nội tâm thì mới có thể chịu khổ lạc”? Không thuận chính lý tí nào cả!

Ở trong Vô sắc giới, chúng sinh không có thân căn nên cũng không có mơ mộng, vì ở đó không có pháp ngủ. Thế nhưng hữu tình trong Vô sắc giới vẫn phải dựa vào “thiền duyệt vi thực” trong thiền định để duy trì sinh mệnh của mình, thì mới có cái lạc trong định cảnh (không phải là lạc như ở Sơ thiền mà là cái lạc thụ cực tĩnh tâm vô tưởng niệm), vì thế Tâm ý thức cũng không thể nào tồn tại độc lập ngoài thân căn hoặc mệnh căn, cho nên những lời Tông Khách Ba nói đều không hợp chính lý.

Lại nữa, Tông Khách Ba nói: “Ở đây nói rõ cái sắc thân không diệt tận vi trần thanh tịnh vô ngại đồng như hư không, tướng hảo trang nghiêm, diệu lạc bất biến (chỉ lạc thụ đệ tứ hỷ trong Song thân pháp) là Tâm”, câu này có sai lầm lớn. Đó là Đại Lạc đệ tứ hỷ trong dâm lạc cũng là pháp duyên khởi – vì phải dựa vào thân căn, Mạt Na thức, A Lại Da thức và Xúc trần thì mới khiến cho Tâm ý thức hiện khởi mà lĩnh nạp cái “diệu lạc bất biến”. Diệu lạc “bất biến” là cái (pháp) dựa vào vật khác mà có (sinh khởi), thì phải hiểu đó là pháp biến dị, không phải là pháp thường trụ bất biến dị. Đã không phải là pháp thường-bất biến dị, thì sao có thể trở thành “Sở y tâm của sắc thân không diệt tận vi trần thanh tịnh vô ngại đồng như hư không, tướng hảo trang nghiêm”? Lý này tà lệch, không thể gọi là chính thuyết (nói đúng) được.

Lại nữa, cái “chí lạc” trong đệ tứ hỷ cũng vẫn chỉ là sở thụ (sự cảm thụ) của Tâm ý thức. Pháp sở thụ thì sao có thể trở thành “Tâm” sở y của Ý thức được? Vì pháp sở thụ là pháp biến dị, pháp sở thụ không phải là tướng tịch tĩnh của Niết Bàn, sao có thể trở thành Sở y tâm của Tâm ý thức được? sao có thể trở thành Sở y tâm của “Phật thân” được? Không có cái lý ấy!

Lại nữa, trong kinh văn quyển thứ 24 thuộc “Trường A Hàm kinh”, Phật đã khai thị thế này: “Phật nói: ‘Giả sử lìa khỏi Danh thân và Sắc thân, thì có sự lạc hơn, hay bày đặt càng lạc hơn chăng?’. Đáp rằng: ‘Không có ạ!”. ‘Này A Nan! Cho nên phải biết rằng, cái nhân càng lạc, tập càng lạc, gốc càng lạc, duyên càng lạc hơn là chỉ cái Danh Sắc này. Vì sao vậy? Vì duyên Danh Sắc nên mới càng lạc hơn’”.

Như vậy, Phật đã thuyết rõ giác thụ xúc về khổ lạc, đều phải dựa nhờ vào Tứ âm thân (Thọ Tưởng Hành Thức) như Danh cộng với Sắc thân thì mới có chúng. Nếu lìa Ngũ âm Danh và Sắc thì không thể có cái càng lạc (khổ lạc xúc). Lời Phật dạy ở đoạn kinh văn này đã rõ ràng tuyên thị rằng phải dựa vào Ngũ âm Danh Sắc thì mới có sự cảm nhận khổ lạc xúc, cho nên đệ tứ hỷ trong dâm lạc Song thân pháp của Mật tông cũng không thể đứng ngoài lý này. Cũng có nghĩa là khi lìa khỏi Danh Sắc thì Tâm ý thức giác tri sẽ không hiện khởi, thì không thể sinh ra cái càng lạc (khổ lạc xúc) được. Vì Tâm giác tri (Ý thức) không thể lìa khỏi thân hữu căn Câu hữu y được. Cho nên, chủ trương lìa Sắc thân (mà vẫn) có thể có lạc thụ của Tông Khách Ba hoàn toàn là những lời cả vú lấp miệng em (cưỡng từ đoạt lý). Vì lời của ông ta không chỉ trái ngược với thế tục đế mà còn trái ngược với thánh giáo của Thế Tôn, cho nên mới nói không thể tin được lời ông ta.

Lại nữa, không chỉ chư kinh Tứ A Hàm nói như vậy, mà trong “Kinh Lăng Nghiêm” của Chân Mật Đại thừa, Phật cũng nói như thế này: “Từ trần mà phát khởi cái tri, vì căn có tướng. Tướng, Kiến vô tính, đồng như giao lô… Giác tri tính này, lìa hai trần ngộ mị (thức và ngủ) sinh diệt đó, cuối cùng vô thể” (Quyển 3).

Lời Phật nói đó đã chỉ rõ ra rằng: “Cái Tâm giác tri phải lấy ngoại trần làm duyên để mà sinh khởi. Vì có lục căn cho nên có tướng Lục trần hiện khởi ở trong Tâm giác tri. Cái Tướng lục trần nhìn thấy được, và cái Tâm giác tri (Ý thức) có thể nhận biết thấy được (Kiến), nó tựa như cái chổi bện thành từ giao lô (cây sậy), chỉ là pháp nhân duyên hợp thành, không có Tự tính chân thực bất hoại…Cái Tâm tính có thể cảm nhận và hiểu biết này, nếu lìa khỏi hai loại pháp trần sinh diệt là thức tỉnh và hôn muội, rốt cuộc sẽ không thể có được Tự thể tính chân thực thường trụ”.

Giác tri tính ở đây chính là Tâm tính ý thức. Phật đã nói rõ như vậy, Tông Khách Ba sao còn cố ý nói trái lời Phật, tự nói theo ý mình? Thậm chí ngày nay, cái Giác tri tính Ý căn mà nhiều đại sư các nơi vẫn không biết đó, Phật cũng nói nó là hư vọng, buộc phải dựa vào Như Lai Tạng mới có, được ghi chép đầy đủ trong “Kinh Lăng Nghiêm”. Cái Giác tri tính Ý căn (Tâm tính giác tri lúc ngủ say không mơ) mà Tông Khách Ba và nhiều đại sư thời nay không biết đó, Phật còn nói nó là giả, huống hồ là Tâm tính giác tri ý thức mà chúng sinh đều biết, có thể hiện quan thấy nó phải dựa vào pháp khác mà có? Tại sao Tông Khách Ba có thể ngang nhiên nói trái lời Phật, giảo biện nói nó là Tâm tính chân thực bất hoại? Không đúng chính lý chút nào!

Lại nữa, tất cả người thường và giới y học đều biết rõ rằng Tâm ý thức không thể tồn tại độc lập bên ngoài ngũ Thắng nghĩa căn (bộ não) của Sắc thân, bởi đó là Thế tục đế. Vì sao các hành giả Hoàng giáo của Mật tông là những người học tập thông minh, tự xưng Trung Quán phái Ứng Thành mà họ tôn thờ là pháp tối cứu cánh trong Phật pháp, lại không hề hiểu biết gì về đạo lý nông cạn đơn giản này? Mù quáng đến thế là cùng!

Nên biết rằng, cái Tâm và Giác tri tính mà tất thảy hữu tình đều biết đó đều không thể tồn tại độc lập bên ngoài Danh Sắc. Cái Tâm có thể tồn tại độc lập bên ngoài Danh Sắc và tất cả các pháp, duy chỉ có Thức thứ tám Như Lai Tạng mà thôi (Thức này trong giai đoạn hữu học vị của phàm phu và đạo Giải Thoát gọi là A Lại Da thức, trong vô học vị thì đổi tên gọi là Thức thứ chín Dị Thục thức, đến Phật địa thì đổi tên là Thức thứ mười Vô Cấu thức, cũng còn gọi là Chân Như. Trong tất cả các quả vị trước khi đến Phật địa thì gọi chung là Như Lai Tạng). Nó có thể lìa tất cả các pháp mà tồn tại đơn độc, còn tất cả các thức khác thì đều không thể tồn tại đơn độc bên ngoài chư pháp. Ví dụ, Ý căn khi chứng đắc quả vị Hữu dư Niết Bàn nó vẫn còn tồn tại, nhưng vẫn phải lấy Thức thứ tám làm Câu hữu y, thì mới có thể hiện khởi, không thể lìa Thức thứ tám để hiện khởi độc lập. Còn Tâm ý thức giác tri thì bắt buộc phải có Thức thứ tám, Ý căn, Pháp trần và Sắc thân có mệnh căn (còn sự sống) để làm Câu hữu y, thì mới có thể hiện khởi ở nhân gian – bất luận là lúc thức hay lúc ngủ. Đây là thường thức hiện thực, cũng là sự thật mà tất cả những người chân ngộ đều có thể hiện tiền thể nghiệm và chứng thực.

Ý thức và Ý căn đều là pháp có thể diệt: Ý thức chắc chắn sẽ bị diệt trong Ngũ vị, đó là lúc ngủ say, lúc ngất, lúc chính tử, lúc nhập Vô tưởng định và lúc nhập Diệt tận định. Cho nên, nếu như có người đắc tội với quỷ thần, vì để báo thù nên quỷ thần tìm cách để đoạn mệnh căn của anh ta – tức là hủy hoại thân ngũ căn của anh ta. Nếu như thân ngũ căn bị hoại, mệnh căn theo đó mà bị đoạn. Nếu mệnh căn bị đoạn, thì Ý thức của oan gia của quỷ thần sẽ buộc phải chuyển vào thân ngũ căn vi tế trong giai đoạn Trung âm thì mới có thể hiện khởi. Sau khi Trung âm thân đầu thai, thì Ý thức của đời này sẽ vĩnh viễn đoạn diệt, không thể đi sang kiếp sau được nữa. Vì thế, tất cả mọi người đều không thể nhận biết được cuộc sống kiếp trước như nhận biết được chuyện của ngày hôm qua (duy trừ những người Túc mệnh thông Tu đắc và Báo đắc), cho nên Ý thức không phải là pháp thường trụ bất hoại.

Ý căn thì không phải ai cũng có thể đoạn được nó. Uy thần của tất cả thiên chủ (thiên vương đứng đầu các cõi trời) hợp lại làm một, cũng không thể làm hủy hoại Ý căn của bất kỳ hữu tình nào. Duy chỉ có Bồ Tát đã chứng ngộ và chư Phật mới có năng lực phá hủy Ý căn của hữu tình, tức là nói cho hữu tình biết về nội dung của đạo Giải Thoát, để hữu tình thân chứng quả Giải thoát, sau khi xả báo thì nhập Niết Bàn vô dư, thì Ý căn mới bị diệt sạch. Ngoài ra, không ai có thể diệt được Ý căn Mạt Na thức của bất kỳ hữu tình nào. Như vậy, Mạt Na thức là pháp có thể diệt, chứ không phải là Tâm tự tại. Cái Tâm tự tại thực sự chính là Thức thứ tám. Thánh nhân vô học Thanh Văn định tính[2], sau khi xả báo, Thập bát giới đều diệt tận, cho nên Ý thức và Ý căn đều bị diệt, chỉ còn lại Thức thứ tám (đổi tên là Thức Dị thục thứ chín, nhưng vẫn là Tâm thể Thức thứ tám) tồn tại một mình, gọi là Thực tế hay Bản Tế của Niết Bàn. Thức này tính như Kim Cương, vĩnh bất khả hoại, cho dù sức mạnh uy thần của chư Phật mười phương hợp lại thành một uy thần lực vô cùng lớn cũng không thể nào hủy diệt được Thức thứ tám nhỏ như con kiến. Vì thể tính của Thức thứ tám pháp vốn như thế, cho nên gọi là Kim Cương Tâm. Nội dung mà “Kinh Kim Cương” nói đến chính là cái Thức Kim Cương thường trụ bất hoại này, cho nên mới có tên là Kinh (nói về) Kim Cương.

Đến Mạt Na thức còn có thể bị diệt, huống hồ là Tâm ý thức giác tri phải dựa vào nhiều hợp duyên mới có thể hiện hành, sao có thể nói nó là Tâm Kim Cương bất hoại được? Chẳng có lý nào. Tông Khách Ba muốn đem Tâm ý thức giác tri thuộc pháp duyên khởi để xây dựng thành Tâm Kim Cương bất hoại, cho dù ông ta có thông minh tài trí đến kịch điểm, cuối cùng cũng không thể nào thành lập được lý này. Các Phật tử có Bát Nhã trí rốt cuộc cũng sẽ phá nó, để bảo vệ chính pháp. Cho nên chủ trương Tâm ý thức có thể tồn tại độc lập bên ngoài Sắc thân của Tông Khách Ba chỉ là ngôn thuyết của kẻ vọng tưởng, nói những lời hoàn toàn phi lý.

Như vậy, Tông Khách Ba đem Tâm ý thức dựng thành Pháp thân, xây thành Tâm Kim Cương của Mật tông, có thể thấy tri kiến của ông ta chẳng khác gì thường kiến ngoại đạo. Người học Mật tông không nên tin theo sai lầm của ông ta để cùng phỉ báng Thức thứ tám Như Lai Tạng, nếu không sẽ trở thành kẻ phỉ báng Bồ Tát Tạng, cùng trở thành người Nhất Xiển Đề giống như Tông Khách Ba, thiện căn đoạn tận. Vì trong “Kinh Lăng Già”, Phật đã nói kẻ phỉ báng Như Lai Tạng A Lại Da thức là người đoạn thiện căn, cho nên tất cả người học Mật tông nhất nhất chớ có bắt chước hành vi ngu xuẩn của Tông Khách Ba, như thế mới là người trí minh triết giữ thân (tâm).

Tông Khách Ba còn coi Quang minh Không điểm bằng quán tưởng là Thực Tế của pháp giới: “Cái lý thâu nhập quang minh, như “Như ngũ thứ đệ luận” nói: ‘Từ đầu cho đến chân, thẳng cho đến giữa tâm, hành giả nhập Thực Tế, gọi tên là chỉnh trì. Nhiếp động phi động trước, để nhập vào quang minh (Không điểm), sau tự thân cũng vậy, là thứ tự tùy hoại. Như khí trên mặt gương, tất cả tiêu tan hết. Thầy du già như thế, nhiều lần nhập Thực Tế’… Bộ luận này (Chỉ “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” do Tông Khách Ba viết) cũng nói như vậy, vì thế chuyển vô phân biệt với ngũ sắc phong, biểu thị Không điểm của tâm. Lúc sinh, từ đó (quang minh Không điểm) sinh phong hỏa thủy…, lúc thu cũng hoàn nhập về đó (quang minh Không điểm). Thuận theo việc tịnh mà tu ba tầng Tát Đỏa, nhập vào cái lý quang minh (Không điểm) của Tam ma địa Tát Đỏa. Việc này rất giống với thánh phái”. (21-555)

Như vậy, Tông Khách Ba cho rằng địa thủy hỏa phong trong cơ thể con người đều từ quang minh (ánh sáng) Minh điểm trong thân thể sinh ra, cho nên sau khi thực hiện các loại quán hành Minh điểm, thì nên dựa vào ngũ phong quán tưởng dựa vào Minh điểm thu vào trong Minh điểm để kết thúc tu hành quán tưởng. Nghĩa là Tông Khách Ba coi quang minh Minh điểm là cội nguồn của sinh mệnh, coi quang minh Minh điểm là Thực Tế của tất thảy pháp giới, cho nên mới nói hành giả nhập vào Thực Tế, nhiều lần nhập Thực Tế. Nếu như quang minh Minh điểm là Thực tế, thì Tông Khách Ba không việc gì phải vất vả tìm kiếm A Lại Da thức tham cứu lâu la mà không thể chứng đắc, không còn phải bị người ta chỉ trích là kẻ chưa Kiến đạo. Vì đã nhận định quang minh Minh điểm là Thực tế, nhận định quang minh Minh điểm là Thực Tế có thể sinh ra Tứ đại địa thủy hỏa phong, nhận định quang minh Minh điểm là Thực Tế nhiếp trì Sắc thân rồi thì không cần phải có A Lại Da thức – cái mà Tông Khách Ba không thể chứng đắc, cho nên Tông Khách Ba có thể phủ nhận sự tồn tại của Thức thứ tám, có thể phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng, đem pháp liễu nghĩa cứu cánh Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật nói trong chư kinh Tam chuyển pháp luân ngắt câu lấy nghĩa, xuyên tạc là phương tiện thuyết – vọng xưng rằng kỳ thực không có Thức thứ tám Như Lai Tạng, tuyên bố Thức thứ tám Như Lai Tạng chỉ là phương tiện thuyết của Phật.

Lại nữa, “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” cũng từng phủ nhận Thức thứ tám: “Khi đó, Đại Nhật Thế Tôn nhập vào Đẳng chí Tam muội (trụ trong Lạc Không song vận cảnh giới dâm lạc sinh ra từ Song thân pháp)… đi theo các loại tính dục của chúng sinh, khiến được hoan hỷ. Khi ấy, tất thảy chi phần của Như Lai đó không có sức chướng ngại, từ tướng vô lượng hình sắc trang nghiêm do Thập trí lực tín giải sinh ra, cái thân tư trưởng (nuôi dưỡng lớn lên) nhờ công đức lục độ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ trong vô số trăm ngàn câu đê na do tha kiếp thực thời xuất hiện. Sau khi nó xuất hiện, trong Hội đại chúng ở các thế giới, nói câu kệ với âm thanh lớn rằng: Chư Phật thật kỳ diệu, quyền trí bất tư nghì, vô A Lại Da tuệ, hàm tàng thuyết chư pháp, nếu hiểu vô sở đắc, pháp tướng của chư pháp, sẽ vô đắc mà đắc, được chư Phật đạo sư”. (Quyển 6, “Đại Chính Tạng” sách 18, trang 36)

Vì các tổ sư Mật tông hiểu sai về A Lại Da thức, cũng không thể chứng được A Lại Da thức, nên mới tạo ra các kinh điển phủ nhận Thức thứ tám, như thế chứng tỏ “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” cũng chưa Kiến đạo. Vì Bát Nhã của Đại thừa lấy việc chứng đắc Thức thứ tám – vô tâm tướng tâm – làm Kiến đạo. Về Nhất thiết chủng trí mà chư Phật chứng đắc trong Đại thừa, nó cũng dựa vào việc chứng đắc Nhất thiết chủng tử (còn gọi là Giới, hay Công năng sai biệt) tàng chứa trong Thức thứ tám thì mới nói rằng đã chứng được Nhất thiết chủng trí. Nay “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” của Mật tông còn chưa chứng được Thức thứ tám mà dám phủ định Thức thứ tám A Lại Da, lấy việc “vô A Lại Da tuệ - không có trí tuệ A Lại Da” để thuyết chư pháp, tức là đã chứng minh Phật của Mật tông còn chưa chứng được trí tuệ Bát Nhã trong Kiến đạo của Đại thừa. “Phật” chưa Kiến đạo, còn chưa biết được Tổng tướng trí Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị, sao có thể tiến cao mà biết được Biệt tướng trí của Bát Nhã? Không biết gì về Biệt tướng trí của Bát Nhã, sao có thể tiến tu Nhất thiết chủng trí? Đã không hiểu gì về Nhất thiết chủng trí thì càng không thể chứng đắc Đạo chủng trí ở quả vị Sơ địa trở lên. Đã không thể đắc Đạo chủng trí thì tất nhiên không thể đắc Nhất thiết chủng trí. “Phật” của Mật tông còn không biết gì về Tổng tướng trí Bát Nhã thô thiển của Bồ Tát thất trụ vị như thế, thì sao có thể gọi ông ta là Phật được? Làm gì có cái lý ấy!

Rõ ràng rằng, người không chứng được Thức thứ tám, còn không biết Tổng tướng trí thô thiển nhất trong trí tuệ Bát Nhã, còn chưa được gọi là Bồ Tát thất trụ vị, mà lại dám dùng tu chứng pháp Lạc Không bất nhị của pháp tu dâm lạc song thân của ngoại đạo để suy tôn là pháp thắng diệu hơn cả Phật của bên Hiển giáo. Ví dụ như kẻ ăn mày xin được hai lạng bạc của vị trưởng giả giàu sang, rồi quay sang tuyên bố với mọi người rằng mình còn giàu có hơn cả vị trưởng giả đại phú đã bố thí bạc kia, như thế chẳng phải là kẻ đại ngu ở thế gian hay sao? Tổ sư của Mật tông cũng như vậy, học được một chút danh tướng (danh từ) bề ngoài của Phật giáo, không biết gì về Thực tế A Lại Da thức của Niết Bàn, lại sáng tạo ra “Đại Nhật Kinh”, cuồng ngôn nói “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” là Pháp thân Phật, Báo thân Phật, còn thắng diệu hơn cả Phật của bên Hiển giáo, quả đúng là những kẻ tối đại ngu trong thế gian. Cho nên, người học Phật phải có trí tuệ. Nếu không có đủ trí tuệ, sẽ bị các ngoại đạo pháp tà kiến đó mê hoặc mà không tự biết. Nếu muốn xây dựng trạch quyết phần học pháp, thì nên đọc nhiều trước tác của tôi, sau khi đọc lại nhiều lần, lại ấn chứng bằng những lời Phật nói trong chư kinh Tam thừa, tự nhiên sẽ dần dần sinh ra trí tuệ trạch quyết phần, sẽ không bị ngoại đạo kiến mê hoặc đánh lừa.

Việc Tông Khách Ba và “Phật” của Mật tông dùng trăm phương ngàn kế, cưỡng từ đoạt lý (cả vú lấp miệng em) để xây dựng Tâm ý thức giác tri là Tâm bất hoại, mục đích chính là nhằm phủ định Thức thứ tám mà họ không thể nào chứng đắc. Nếu đại chúng khắp nơi đều tin theo cái tà kiến phủ định Thức thứ tám của Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông, thì sự thực về việc họ chưa Kiến đạo sẽ có thể được che dấu hoàn toàn không ai được biết, họ liền có thể trở thành đại sư, hoằng dương pháp môn tà kiến ngoại đạo của Mật tông, và cũng không ai có thể bình phá được chúng. Nếu như Mật tông dùng thủ đoạn này để thay thế Hiển giáo, Phật giáo sẽ bị tiêu diệt dần từ phương diện thực chất – chỉ còn cái tên Phật giáo trống rỗng và biểu tướng bề ngoài của các pháp sư, tự viện; họ sẽ hoằng dương cái pháp “Chỉ có danh tướng Phật giáo suông” và pháp tu song thân tà dâm của ngoại đạo. Câu chuyện Phật giáo ở Thiên Trúc (Ấn Độ cổ) năm xưa đã bị diệt trong tay Mật tông sẽ được tái diễn trên toàn thế giới ngày nay, khi đó chính là lúc Phật pháp sẽ bị tiêu diệt mãi mãi ở trái đất này.

Nếu muốn ngăn chặn diễn biến này, người học Phật ngày nay phải đứng ra vạch trần sự hư vọng tà trái của Mật tông, đem bản chất thực sự của họ phơi bày đúng sự thật trước mắt thế nhân. Nếu làm được như thế, thì Phật giáo có thể tiếp tục được kéo dài hơn 9000 năm nữa, để đợi Nhật Quang Bồ Tát thị hiện nhân gian. Nếu đại chúng không muốn thực hiện điều này, chỉ muốn trở thành người tốt bừa (tốt một cách tùy tiện), thì Phật giáo trong vòng 50 năm nữa sẽ lại bước vào vết xe đổ Phật giáo Thiên trúc bị diệt bởi Mật tông năm xưa, chỉ còn lại Phật giáo kiểu vương triều Ba La – tức Phật giáo lấy Đoạn diệt kiến Trung Quán phái Ứng Thành làm chủ, là “Phật giáo” lấy pháp tu song thân của Tính Lực phái thuộc Bà La Môn giáo làm chính. Phật giáo thực sự từ đó sẽ vĩnh viễn không còn cơ hội giũ thân đổi đời nữa, và thời kỳ Mạt pháp sẽ chính thức cáo chung trước thời hạn, sau này sẽ mãi mãi không còn chính pháp Phật giáo chân chính hoằng truyền ở nhân gian. Phải đợi Di Lặc Bồ Tát giáng sinh thành Phật, thì mới lại có Phật pháp hoằng truyền.

Phàm là người học Phật giáo chúng ta, đều nên cảnh giác trước việc này, tự mình thâm nhập tìm hiểu thêm, sau đó đưa ra sự lựa chọn chính xác. Nếu làm được như thế, sẽ là cái Phúc của chúng sinh như tôi đời này và đời sau lại thụ sinh ở thế giới Ta Bà này. Nếu không làm được như vậy, thì tất cả những người học 20, 30 năm sau sẽ lấy việc cầu sinh Cực Lạc làm chính, không còn vui cầu đạo thành Phật (ở nhân gian) nữa, sẽ theo Mật tông tu học Song thân pháp mà rơi vào đại vọng ngữ nghiệp, chắc chắn sẽ theo pháp sư Ấn Thuận tu học Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông mà rơi vào trong đại ác nghiệp phá hoại Phật giáo.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Huyễn ế là chỉ sự ngăn che của cảnh giả. “Kinh Lăng Nghiêm” quyển 6 nói: “Kiến văn như huyễn ế, Tam giới nhược không hoa”.

[2] Chú thích của người dịch: “Thánh nhân vô học Thanh Văn định tính” là chỉ La Hán định tính, tức là người chỉ một mực muốn nhập Vô dư Niết Bàn, thoát lìa khỏi sinh tử luân hồi trong Tam giới, không muốn ở lại nhân gian độ chúng, càng không muốn tu học đạo Phật Bồ Đề.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31464


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg