Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 2: Phái Cách Lỗ là kẻ phá pháp phủ định Như Lai Tạng -2 |
Ví dụ Tông Khách Ba nói con người trong giấc mơ vẫn có thể thụ nhận các loại khổ lạc, qua đó để giải thích Tâm ý thức giác tri có thể chịu khổ lạc bên ngoài sắc thân, kỳ thực nó vẫn vẫn không lìa sắc thân, không thể tồn tại một mình bên ngoài sắc thân để chịu các loại khổ lạc. Con người ta sở dĩ có thể có mộng đẹp và ác mộng đều là do có sự hiện hành của Ý thức. Thế nhưng, sự hiện hành của Ý thức bắt buộc phải có “hữu căn thân” – tức là sắc thân ngũ căn có sinh mệnh, thì mới có thể hiện hành. Vì thế, chỉ có người nào có hiện tượng sinh mệnh bình thường thì mới có cảnh mộng. Nếu như người nào có hiện tượng sinh mệnh dị thường, ví dụ hôn mê hoặc ở giai đoạn chính tử vị, thì Ý thức không thể hiện hành, đương nhiên không thể có giấc mộng. Nếu không có giấc mộng, thì không thể có sự chịu khổ lạc trong mộng. Vì thế, mỹ mộng, ác mộng của con người, đều phải dựa vào thân căn bình thường mới có được, không thể có giấc mộng bên ngoài thân căn. Cho nên, câu nói “có mộng cảnh khổ lạc ngoài thân căn” của Tông Khách Ba chỉ là vọng tưởng, cũng là những lời cả vú lấp miệng em. Nhân gian ở Dục giới mà lìa thân căn thì không thể có lạc thụ trong cảnh mộng, thì làm sao có thể chủ trương lìa thân thì có thể có “diệu lạc bất biến”? sao có thể chủ trương “cho nên chịu khổ lạc không cần phải có thân do vi trần tập hợp”? sao có thể chủ trương “nhờ từ sức mạnh tập khí nội tâm thì mới có thể chịu khổ lạc”? Không thuận chính lý tí nào cả! Ở trong Vô sắc giới, chúng sinh không có thân căn nên cũng không có mơ mộng, vì ở đó không có pháp ngủ. Thế nhưng hữu tình trong Vô sắc giới vẫn phải dựa vào “thiền duyệt vi thực” trong thiền định để duy trì sinh mệnh của mình, thì mới có cái lạc trong định cảnh (không phải là lạc như ở Sơ thiền mà là cái lạc thụ cực tĩnh tâm vô tưởng niệm), vì thế Tâm ý thức cũng không thể nào tồn tại độc lập ngoài thân căn hoặc mệnh căn, cho nên những lời Tông Khách Ba nói đều không hợp chính lý. Lại nữa, Tông Khách Ba nói: “Ở đây nói rõ cái sắc thân không diệt tận vi trần thanh tịnh vô ngại đồng như hư không, tướng hảo trang nghiêm, diệu lạc bất biến (chỉ lạc thụ đệ tứ hỷ trong Song thân pháp) là Tâm”, câu này có sai lầm lớn. Đó là Đại Lạc đệ tứ hỷ trong dâm lạc cũng là pháp duyên khởi – vì phải dựa vào thân căn, Mạt Na thức, A Lại Da thức và Xúc trần thì mới khiến cho Tâm ý thức hiện khởi mà lĩnh nạp cái “diệu lạc bất biến”. Diệu lạc “bất biến” là cái (pháp) dựa vào vật khác mà có (sinh khởi), thì phải hiểu đó là pháp biến dị, không phải là pháp thường trụ bất biến dị. Đã không phải là pháp thường-bất biến dị, thì sao có thể trở thành “Sở y tâm của sắc thân không diệt tận vi trần thanh tịnh vô ngại đồng như hư không, tướng hảo trang nghiêm”? Lý này tà lệch, không thể gọi là chính thuyết (nói đúng) được. Lại nữa, cái “chí lạc” trong đệ tứ hỷ cũng vẫn chỉ là sở thụ (sự cảm thụ) của Tâm ý thức. Pháp sở thụ thì sao có thể trở thành “Tâm” sở y của Ý thức được? Vì pháp sở thụ là pháp biến dị, pháp sở thụ không phải là tướng tịch tĩnh của Niết Bàn, sao có thể trở thành Sở y tâm của Tâm ý thức được? sao có thể trở thành Sở y tâm của “Phật thân” được? Không có cái lý ấy! Lại nữa, trong kinh văn quyển thứ 24 thuộc “Trường A Hàm kinh”, Phật đã khai thị thế này: “Phật nói: ‘Giả sử lìa khỏi Danh thân và Sắc thân, thì có sự lạc hơn, hay bày đặt càng lạc hơn chăng?’. Đáp rằng: ‘Không có ạ!”. ‘Này A Nan! Cho nên phải biết rằng, cái nhân càng lạc, tập càng lạc, gốc càng lạc, duyên càng lạc hơn là chỉ cái Danh Sắc này. Vì sao vậy? Vì duyên Danh Sắc nên mới càng lạc hơn’”. Như vậy, Phật đã thuyết rõ giác thụ xúc về khổ lạc, đều phải dựa nhờ vào Tứ âm thân (Thọ Tưởng Hành Thức) như Danh cộng với Sắc thân thì mới có chúng. Nếu lìa Ngũ âm Danh và Sắc thì không thể có cái càng lạc (khổ lạc xúc). Lời Phật dạy ở đoạn kinh văn này đã rõ ràng tuyên thị rằng phải dựa vào Ngũ âm Danh Sắc thì mới có sự cảm nhận khổ lạc xúc, cho nên đệ tứ hỷ trong dâm lạc Song thân pháp của Mật tông cũng không thể đứng ngoài lý này. Cũng có nghĩa là khi lìa khỏi Danh Sắc thì Tâm ý thức giác tri sẽ không hiện khởi, thì không thể sinh ra cái càng lạc (khổ lạc xúc) được. Vì Tâm giác tri (Ý thức) không thể lìa khỏi thân hữu căn Câu hữu y được. Cho nên, chủ trương lìa Sắc thân (mà vẫn) có thể có lạc thụ của Tông Khách Ba hoàn toàn là những lời cả vú lấp miệng em (cưỡng từ đoạt lý). Vì lời của ông ta không chỉ trái ngược với thế tục đế mà còn trái ngược với thánh giáo của Thế Tôn, cho nên mới nói không thể tin được lời ông ta. Lại nữa, không chỉ chư kinh Tứ A Hàm nói như vậy, mà trong “Kinh Lăng Nghiêm” của Chân Mật Đại thừa, Phật cũng nói như thế này: “Từ trần mà phát khởi cái tri, vì căn có tướng. Tướng, Kiến vô tính, đồng như giao lô… Giác tri tính này, lìa hai trần ngộ mị (thức và ngủ) sinh diệt đó, cuối cùng vô thể” (Quyển 3). Lời Phật nói đó đã chỉ rõ ra rằng: “Cái Tâm giác tri phải lấy ngoại trần làm duyên để mà sinh khởi. Vì có lục căn cho nên có tướng Lục trần hiện khởi ở trong Tâm giác tri. Cái Tướng lục trần nhìn thấy được, và cái Tâm giác tri (Ý thức) có thể nhận biết thấy được (Kiến), nó tựa như cái chổi bện thành từ giao lô (cây sậy), chỉ là pháp nhân duyên hợp thành, không có Tự tính chân thực bất hoại…Cái Tâm tính có thể cảm nhận và hiểu biết này, nếu lìa khỏi hai loại pháp trần sinh diệt là thức tỉnh và hôn muội, rốt cuộc sẽ không thể có được Tự thể tính chân thực thường trụ”. Giác tri tính ở đây chính là Tâm tính ý thức. Phật đã nói rõ như vậy, Tông Khách Ba sao còn cố ý nói trái lời Phật, tự nói theo ý mình? Thậm chí ngày nay, cái Giác tri tính Ý căn mà nhiều đại sư các nơi vẫn không biết đó, Phật cũng nói nó là hư vọng, buộc phải dựa vào Như Lai Tạng mới có, được ghi chép đầy đủ trong “Kinh Lăng Nghiêm”. Cái Giác tri tính Ý căn (Tâm tính giác tri lúc ngủ say không mơ) mà Tông Khách Ba và nhiều đại sư thời nay không biết đó, Phật còn nói nó là giả, huống hồ là Tâm tính giác tri ý thức mà chúng sinh đều biết, có thể hiện quan thấy nó phải dựa vào pháp khác mà có? Tại sao Tông Khách Ba có thể ngang nhiên nói trái lời Phật, giảo biện nói nó là Tâm tính chân thực bất hoại? Không đúng chính lý chút nào! Lại nữa, tất cả người thường và giới y học đều biết rõ rằng Tâm ý thức không thể tồn tại độc lập bên ngoài ngũ Thắng nghĩa căn (bộ não) của Sắc thân, bởi đó là Thế tục đế. Vì sao các hành giả Hoàng giáo của Mật tông là những người học tập thông minh, tự xưng Trung Quán phái Ứng Thành mà họ tôn thờ là pháp tối cứu cánh trong Phật pháp, lại không hề hiểu biết gì về đạo lý nông cạn đơn giản này? Mù quáng đến thế là cùng! Nên biết rằng, cái Tâm và Giác tri tính mà tất thảy hữu tình đều biết đó đều không thể tồn tại độc lập bên ngoài Danh Sắc. Cái Tâm có thể tồn tại độc lập bên ngoài Danh Sắc và tất cả các pháp, duy chỉ có Thức thứ tám Như Lai Tạng mà thôi (Thức này trong giai đoạn hữu học vị của phàm phu và đạo Giải Thoát gọi là A Lại Da thức, trong vô học vị thì đổi tên gọi là Thức thứ chín Dị Thục thức, đến Phật địa thì đổi tên là Thức thứ mười Vô Cấu thức, cũng còn gọi là Chân Như. Trong tất cả các quả vị trước khi đến Phật địa thì gọi chung là Như Lai Tạng). Nó có thể lìa tất cả các pháp mà tồn tại đơn độc, còn tất cả các thức khác thì đều không thể tồn tại đơn độc bên ngoài chư pháp. Ví dụ, Ý căn khi chứng đắc quả vị Hữu dư Niết Bàn nó vẫn còn tồn tại, nhưng vẫn phải lấy Thức thứ tám làm Câu hữu y, thì mới có thể hiện khởi, không thể lìa Thức thứ tám để hiện khởi độc lập. Còn Tâm ý thức giác tri thì bắt buộc phải có Thức thứ tám, Ý căn, Pháp trần và Sắc thân có mệnh căn (còn sự sống) để làm Câu hữu y, thì mới có thể hiện khởi ở nhân gian – bất luận là lúc thức hay lúc ngủ. Đây là thường thức hiện thực, cũng là sự thật mà tất cả những người chân ngộ đều có thể hiện tiền thể nghiệm và chứng thực. Ý thức và Ý căn đều là pháp có thể diệt: Ý thức chắc chắn sẽ bị diệt trong Ngũ vị, đó là lúc ngủ say, lúc ngất, lúc chính tử, lúc nhập Vô tưởng định và lúc nhập Diệt tận định. Cho nên, nếu như có người đắc tội với quỷ thần, vì để báo thù nên quỷ thần tìm cách để đoạn mệnh căn của anh ta – tức là hủy hoại thân ngũ căn của anh ta. Nếu như thân ngũ căn bị hoại, mệnh căn theo đó mà bị đoạn. Nếu mệnh căn bị đoạn, thì Ý thức của oan gia của quỷ thần sẽ buộc phải chuyển vào thân ngũ căn vi tế trong giai đoạn Trung âm thì mới có thể hiện khởi. Sau khi Trung âm thân đầu thai, thì Ý thức của đời này sẽ vĩnh viễn đoạn diệt, không thể đi sang kiếp sau được nữa. Vì thế, tất cả mọi người đều không thể nhận biết được cuộc sống kiếp trước như nhận biết được chuyện của ngày hôm qua (duy trừ những người Túc mệnh thông Tu đắc và Báo đắc), cho nên Ý thức không phải là pháp thường trụ bất hoại. Ý căn thì không phải ai cũng có thể đoạn được nó. Uy thần của tất cả thiên chủ (thiên vương đứng đầu các cõi trời) hợp lại làm một, cũng không thể làm hủy hoại Ý căn của bất kỳ hữu tình nào. Duy chỉ có Bồ Tát đã chứng ngộ và chư Phật mới có năng lực phá hủy Ý căn của hữu tình, tức là nói cho hữu tình biết về nội dung của đạo Giải Thoát, để hữu tình thân chứng quả Giải thoát, sau khi xả báo thì nhập Niết Bàn vô dư, thì Ý căn mới bị diệt sạch. Ngoài ra, không ai có thể diệt được Ý căn Mạt Na thức của bất kỳ hữu tình nào. Như vậy, Mạt Na thức là pháp có thể diệt, chứ không phải là Tâm tự tại. Cái Tâm tự tại thực sự chính là Thức thứ tám. Thánh nhân vô học Thanh Văn định tính[2], sau khi xả báo, Thập bát giới đều diệt tận, cho nên Ý thức và Ý căn đều bị diệt, chỉ còn lại Thức thứ tám (đổi tên là Thức Dị thục thứ chín, nhưng vẫn là Tâm thể Thức thứ tám) tồn tại một mình, gọi là Thực tế hay Bản Tế của Niết Bàn. Thức này tính như Kim Cương, vĩnh bất khả hoại, cho dù sức mạnh uy thần của chư Phật mười phương hợp lại thành một uy thần lực vô cùng lớn cũng không thể nào hủy diệt được Thức thứ tám nhỏ như con kiến. Vì thể tính của Thức thứ tám pháp vốn như thế, cho nên gọi là Kim Cương Tâm. Nội dung mà “Kinh Kim Cương” nói đến chính là cái Thức Kim Cương thường trụ bất hoại này, cho nên mới có tên là Kinh (nói về) Kim Cương. Đến Mạt Na thức còn có thể bị diệt, huống hồ là Tâm ý thức giác tri phải dựa vào nhiều hợp duyên mới có thể hiện hành, sao có thể nói nó là Tâm Kim Cương bất hoại được? Chẳng có lý nào. Tông Khách Ba muốn đem Tâm ý thức giác tri thuộc pháp duyên khởi để xây dựng thành Tâm Kim Cương bất hoại, cho dù ông ta có thông minh tài trí đến kịch điểm, cuối cùng cũng không thể nào thành lập được lý này. Các Phật tử có Bát Nhã trí rốt cuộc cũng sẽ phá nó, để bảo vệ chính pháp. Cho nên chủ trương Tâm ý thức có thể tồn tại độc lập bên ngoài Sắc thân của Tông Khách Ba chỉ là ngôn thuyết của kẻ vọng tưởng, nói những lời hoàn toàn phi lý. Như vậy, Tông Khách Ba đem Tâm ý thức dựng thành Pháp thân, xây thành Tâm Kim Cương của Mật tông, có thể thấy tri kiến của ông ta chẳng khác gì thường kiến ngoại đạo. Người học Mật tông không nên tin theo sai lầm của ông ta để cùng phỉ báng Thức thứ tám Như Lai Tạng, nếu không sẽ trở thành kẻ phỉ báng Bồ Tát Tạng, cùng trở thành người Nhất Xiển Đề giống như Tông Khách Ba, thiện căn đoạn tận. Vì trong “Kinh Lăng Già”, Phật đã nói kẻ phỉ báng Như Lai Tạng A Lại Da thức là người đoạn thiện căn, cho nên tất cả người học Mật tông nhất nhất chớ có bắt chước hành vi ngu xuẩn của Tông Khách Ba, như thế mới là người trí minh triết giữ thân (tâm). Tông Khách Ba còn coi Quang minh Không điểm bằng quán tưởng là Thực Tế của pháp giới: “Cái lý thâu nhập quang minh, như “Như ngũ thứ đệ luận” nói: ‘Từ đầu cho đến chân, thẳng cho đến giữa tâm, hành giả nhập Thực Tế, gọi tên là chỉnh trì. Nhiếp động phi động trước, để nhập vào quang minh (Không điểm), sau tự thân cũng vậy, là thứ tự tùy hoại. Như khí trên mặt gương, tất cả tiêu tan hết. Thầy du già như thế, nhiều lần nhập Thực Tế’… Bộ luận này (Chỉ “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” do Tông Khách Ba viết) cũng nói như vậy, vì thế chuyển vô phân biệt với ngũ sắc phong, biểu thị Không điểm của tâm. Lúc sinh, từ đó (quang minh Không điểm) sinh phong hỏa thủy…, lúc thu cũng hoàn nhập về đó (quang minh Không điểm). Thuận theo việc tịnh mà tu ba tầng Tát Đỏa, nhập vào cái lý quang minh (Không điểm) của Tam ma địa Tát Đỏa. Việc này rất giống với thánh phái”. (21-555) Như vậy, Tông Khách Ba cho rằng địa thủy hỏa phong trong cơ thể con người đều từ quang minh (ánh sáng) Minh điểm trong thân thể sinh ra, cho nên sau khi thực hiện các loại quán hành Minh điểm, thì nên dựa vào ngũ phong quán tưởng dựa vào Minh điểm thu vào trong Minh điểm để kết thúc tu hành quán tưởng. Nghĩa là Tông Khách Ba coi quang minh Minh điểm là cội nguồn của sinh mệnh, coi quang minh Minh điểm là Thực Tế của tất thảy pháp giới, cho nên mới nói hành giả nhập vào Thực Tế, nhiều lần nhập Thực Tế. Nếu như quang minh Minh điểm là Thực tế, thì Tông Khách Ba không việc gì phải vất vả tìm kiếm A Lại Da thức tham cứu lâu la mà không thể chứng đắc, không còn phải bị người ta chỉ trích là kẻ chưa Kiến đạo. Vì đã nhận định quang minh Minh điểm là Thực tế, nhận định quang minh Minh điểm là Thực Tế có thể sinh ra Tứ đại địa thủy hỏa phong, nhận định quang minh Minh điểm là Thực Tế nhiếp trì Sắc thân rồi thì không cần phải có A Lại Da thức – cái mà Tông Khách Ba không thể chứng đắc, cho nên Tông Khách Ba có thể phủ nhận sự tồn tại của Thức thứ tám, có thể phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng, đem pháp liễu nghĩa cứu cánh Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật nói trong chư kinh Tam chuyển pháp luân ngắt câu lấy nghĩa, xuyên tạc là phương tiện thuyết – vọng xưng rằng kỳ thực không có Thức thứ tám Như Lai Tạng, tuyên bố Thức thứ tám Như Lai Tạng chỉ là phương tiện thuyết của Phật. Lại nữa, “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” cũng từng phủ nhận Thức thứ tám: “Khi đó, Đại Nhật Thế Tôn nhập vào Đẳng chí Tam muội (trụ trong Lạc Không song vận cảnh giới dâm lạc sinh ra từ Song thân pháp)… đi theo các loại tính dục của chúng sinh, khiến được hoan hỷ. Khi ấy, tất thảy chi phần của Như Lai đó không có sức chướng ngại, từ tướng vô lượng hình sắc trang nghiêm do Thập trí lực tín giải sinh ra, cái thân tư trưởng (nuôi dưỡng lớn lên) nhờ công đức lục độ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ trong vô số trăm ngàn câu đê na do tha kiếp thực thời xuất hiện. Sau khi nó xuất hiện, trong Hội đại chúng ở các thế giới, nói câu kệ với âm thanh lớn rằng: Chư Phật thật kỳ diệu, quyền trí bất tư nghì, vô A Lại Da tuệ, hàm tàng thuyết chư pháp, nếu hiểu vô sở đắc, pháp tướng của chư pháp, sẽ vô đắc mà đắc, được chư Phật đạo sư”. (Quyển 6, “Đại Chính Tạng” sách 18, trang 36) Vì các tổ sư Mật tông hiểu sai về A Lại Da thức, cũng không thể chứng được A Lại Da thức, nên mới tạo ra các kinh điển phủ nhận Thức thứ tám, như thế chứng tỏ “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” cũng chưa Kiến đạo. Vì Bát Nhã của Đại thừa lấy việc chứng đắc Thức thứ tám – vô tâm tướng tâm – làm Kiến đạo. Về Nhất thiết chủng trí mà chư Phật chứng đắc trong Đại thừa, nó cũng dựa vào việc chứng đắc Nhất thiết chủng tử (còn gọi là Giới, hay Công năng sai biệt) tàng chứa trong Thức thứ tám thì mới nói rằng đã chứng được Nhất thiết chủng trí. Nay “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” của Mật tông còn chưa chứng được Thức thứ tám mà dám phủ định Thức thứ tám A Lại Da, lấy việc “vô A Lại Da tuệ - không có trí tuệ A Lại Da” để thuyết chư pháp, tức là đã chứng minh Phật của Mật tông còn chưa chứng được trí tuệ Bát Nhã trong Kiến đạo của Đại thừa. “Phật” chưa Kiến đạo, còn chưa biết được Tổng tướng trí Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị, sao có thể tiến cao mà biết được Biệt tướng trí của Bát Nhã? Không biết gì về Biệt tướng trí của Bát Nhã, sao có thể tiến tu Nhất thiết chủng trí? Đã không hiểu gì về Nhất thiết chủng trí thì càng không thể chứng đắc Đạo chủng trí ở quả vị Sơ địa trở lên. Đã không thể đắc Đạo chủng trí thì tất nhiên không thể đắc Nhất thiết chủng trí. “Phật” của Mật tông còn không biết gì về Tổng tướng trí Bát Nhã thô thiển của Bồ Tát thất trụ vị như thế, thì sao có thể gọi ông ta là Phật được? Làm gì có cái lý ấy! Rõ ràng rằng, người không chứng được Thức thứ tám, còn không biết Tổng tướng trí thô thiển nhất trong trí tuệ Bát Nhã, còn chưa được gọi là Bồ Tát thất trụ vị, mà lại dám dùng tu chứng pháp Lạc Không bất nhị của pháp tu dâm lạc song thân của ngoại đạo để suy tôn là pháp thắng diệu hơn cả Phật của bên Hiển giáo. Ví dụ như kẻ ăn mày xin được hai lạng bạc của vị trưởng giả giàu sang, rồi quay sang tuyên bố với mọi người rằng mình còn giàu có hơn cả vị trưởng giả đại phú đã bố thí bạc kia, như thế chẳng phải là kẻ đại ngu ở thế gian hay sao? Tổ sư của Mật tông cũng như vậy, học được một chút danh tướng (danh từ) bề ngoài của Phật giáo, không biết gì về Thực tế A Lại Da thức của Niết Bàn, lại sáng tạo ra “Đại Nhật Kinh”, cuồng ngôn nói “Phật” trong “Đại Nhật Kinh” là Pháp thân Phật, Báo thân Phật, còn thắng diệu hơn cả Phật của bên Hiển giáo, quả đúng là những kẻ tối đại ngu trong thế gian. Cho nên, người học Phật phải có trí tuệ. Nếu không có đủ trí tuệ, sẽ bị các ngoại đạo pháp tà kiến đó mê hoặc mà không tự biết. Nếu muốn xây dựng trạch quyết phần học pháp, thì nên đọc nhiều trước tác của tôi, sau khi đọc lại nhiều lần, lại ấn chứng bằng những lời Phật nói trong chư kinh Tam thừa, tự nhiên sẽ dần dần sinh ra trí tuệ trạch quyết phần, sẽ không bị ngoại đạo kiến mê hoặc đánh lừa. Việc Tông Khách Ba và “Phật” của Mật tông dùng trăm phương ngàn kế, cưỡng từ đoạt lý (cả vú lấp miệng em) để xây dựng Tâm ý thức giác tri là Tâm bất hoại, mục đích chính là nhằm phủ định Thức thứ tám mà họ không thể nào chứng đắc. Nếu đại chúng khắp nơi đều tin theo cái tà kiến phủ định Thức thứ tám của Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông, thì sự thực về việc họ chưa Kiến đạo sẽ có thể được che dấu hoàn toàn không ai được biết, họ liền có thể trở thành đại sư, hoằng dương pháp môn tà kiến ngoại đạo của Mật tông, và cũng không ai có thể bình phá được chúng. Nếu như Mật tông dùng thủ đoạn này để thay thế Hiển giáo, Phật giáo sẽ bị tiêu diệt dần từ phương diện thực chất – chỉ còn cái tên Phật giáo trống rỗng và biểu tướng bề ngoài của các pháp sư, tự viện; họ sẽ hoằng dương cái pháp “Chỉ có danh tướng Phật giáo suông” và pháp tu song thân tà dâm của ngoại đạo. Câu chuyện Phật giáo ở Thiên Trúc (Ấn Độ cổ) năm xưa đã bị diệt trong tay Mật tông sẽ được tái diễn trên toàn thế giới ngày nay, khi đó chính là lúc Phật pháp sẽ bị tiêu diệt mãi mãi ở trái đất này. Nếu muốn ngăn chặn diễn biến này, người học Phật ngày nay phải đứng ra vạch trần sự hư vọng tà trái của Mật tông, đem bản chất thực sự của họ phơi bày đúng sự thật trước mắt thế nhân. Nếu làm được như thế, thì Phật giáo có thể tiếp tục được kéo dài hơn 9000 năm nữa, để đợi Nhật Quang Bồ Tát thị hiện nhân gian. Nếu đại chúng không muốn thực hiện điều này, chỉ muốn trở thành người tốt bừa (tốt một cách tùy tiện), thì Phật giáo trong vòng 50 năm nữa sẽ lại bước vào vết xe đổ Phật giáo Thiên trúc bị diệt bởi Mật tông năm xưa, chỉ còn lại Phật giáo kiểu vương triều Ba La – tức Phật giáo lấy Đoạn diệt kiến Trung Quán phái Ứng Thành làm chủ, là “Phật giáo” lấy pháp tu song thân của Tính Lực phái thuộc Bà La Môn giáo làm chính. Phật giáo thực sự từ đó sẽ vĩnh viễn không còn cơ hội giũ thân đổi đời nữa, và thời kỳ Mạt pháp sẽ chính thức cáo chung trước thời hạn, sau này sẽ mãi mãi không còn chính pháp Phật giáo chân chính hoằng truyền ở nhân gian. Phải đợi Di Lặc Bồ Tát giáng sinh thành Phật, thì mới lại có Phật pháp hoằng truyền. Phàm là người học Phật giáo chúng ta, đều nên cảnh giác trước việc này, tự mình thâm nhập tìm hiểu thêm, sau đó đưa ra sự lựa chọn chính xác. Nếu làm được như thế, sẽ là cái Phúc của chúng sinh như tôi đời này và đời sau lại thụ sinh ở thế giới Ta Bà này. Nếu không làm được như vậy, thì tất cả những người học 20, 30 năm sau sẽ lấy việc cầu sinh Cực Lạc làm chính, không còn vui cầu đạo thành Phật (ở nhân gian) nữa, sẽ theo Mật tông tu học Song thân pháp mà rơi vào đại vọng ngữ nghiệp, chắc chắn sẽ theo pháp sư Ấn Thuận tu học Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông mà rơi vào trong đại ác nghiệp phá hoại Phật giáo.
[1] Chú thích của người dịch: Huyễn ế là chỉ sự ngăn che của cảnh giả. “Kinh Lăng Nghiêm” quyển 6 nói: “Kiến văn như huyễn ế, Tam giới nhược không hoa”. [2] Chú thích của người dịch: “Thánh nhân vô học Thanh Văn định tính” là chỉ La Hán định tính, tức là người chỉ một mực muốn nhập Vô dư Niết Bàn, thoát lìa khỏi sinh tử luân hồi trong Tam giới, không muốn ở lại nhân gian độ chúng, càng không muốn tu học đạo Phật Bồ Đề.
Lượt xem trang: 31464 |
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |