Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 2: Phái Cách Lỗ là kẻ phá pháp phủ định Như Lai Tạng |
Tiết 2: Phái Cách Lỗ là kẻ phá pháp phủ định Như Lai Tạng Hoàng giáo – Phái Cách Lỗ của Mật tông phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng, phủ định cả Phật chỉ trong chư kinh Duy Thức của Tam chuyển pháp luân, không thừa nhận có tồn tại Thức thứ tám A Lại Da, như Tông Khách Ba nói: “…Nếu nói người Tiểu thừa không thông đạt Vô tự tính Không tính là người tông đó, tức luận đó (“Thích Bồ Đề Tâm luận” của Mật tông) nói: ‘Nếu không biết Không tính, kẻ đó vô giải thoát, thành kẻ ngu luân chuyển, ngục Lục đạo Tam hữu’, thì không thuận lý, vì người Tiểu thừa cũng có thể giải thoát ngục Tam hữu. Như thế, Nhiếp hành luận nói: Phật nói Bát thức cho đông đảo người thắng giải để khiến họ thông đạt, cũng chỉ hiển thị rằng kinh có nói như vậy; không phải là tự tông cho phép ngoài Lục thức lại có riêng A Lại Da thức dị thể (lạc loài). Như Tập Mật thánh phái nói chết có quang minh tất thảy Không tâm là tử tâm, từ nơi đó nghịch khởi cận đắc tâm là sinh tâm, cả hai tâm đó đều không phải là A Lại Da thức. Thích Bồ Đề Tâm luận tuy nói đến cái tên A Lại Da thức, nhưng về mặt nghĩa là nói Ý thức là căn bản (gốc rễ) của tất thảy pháp nhiễm tịnh (sạch bẩn). Vấn đề này đã giải thích rộng trong Tập trí Kim Cương sớ rồi”. (11-387~388) Đoạn văn trong “Thắng Tập Mật giáo vương ngũ thứ đệ giáo thụ thiện hiển cự luận” do Tông Khách Ba viết đã thể hiện Bát Nhã Trung Quán trong pháp Đại thừa của Tông Khách Ba, căn bản là chưa từng Kiến đạo. Ông ta còn chưa Kiến đạo ở đạo Giải Thoát của Tiểu thừa, còn chưa chứng được Sơ quả Thanh Văn thì nói gì đến Phật Bồ Đề của Đại thừa đây? Thậm chí ông ta còn có hiểu lầm lớn về pháp Tiểu thừa trong Phật pháp Tam thừa nữa. Nay nói Tông Khách Ba hiểu sai về pháp nghĩa cơ bản của pháp Tiểu thừa: Trong pháp Tiểu thừa, trong các kinh Tứ A Hàm, Phật liên tục nói Ngũ uẩn có Thập bát giới, Lục thức nhãn nhị tỵ thiệt thân ý đều là Tâm, còn có Ý căn cũng là Tâm, tổng cộng bảy thức. Bảy thức này được bao hàm trong “Danh” của “Danh Sắc”. Từ bảy thức này cộng với Sắc thân thì có Thọ, Tưởng, Hành uẩn, gọi chung là “Danh Sắc”. Bảy thức trong Danh Sắc tất phải duyên vào một Thức khác thì mới có thể hiện hành, vận tác trong Lục đạo Tam giới. Thất thức Tâm trong “Danh Sắc” nếu như lìa khỏi một cái Thức khác mà chúng duyên bám vào, thì không thể hiện hành vận tác được. Chính vì thế mà Phật mới thường nói “THỨC duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên THỨC” trong chư kinh A Hàm của pháp Nhị thừa. “Danh” trong Danh Sắc vốn đã có bảy thức gồm Lục thức và Ý căn rồi, mà “Danh” này lại cùng “Sắc thân” duyên vào một cái “THỨC” khác. Như vậy, cái “THỨC” mà chúng duyên vào đó nếu không phải là Thức thứ tám A Lại Da thì là Thức nào? Nhưng vì Tông Khách Ba do chưa chứng đắc, nên mới phủ định Thức đó đi. Ngã kiến sâu nặng như vậy, lại còn hiểu sai về yếu chỉ trong kinh A Hàm, thì sao có thể xứng đáng gọi là bậc thánh đã chứng đạo Giải Thoát A Hàm? Người hiểu sai nghiêm trọng về yếu chỉ kinh A Hàm như thế, đến Sơ quả của Thanh Văn còn chưa chứng được, trong khi đó các bậc thánh từ Sơ quả cho đến Tứ quả của Thanh Văn kia còn không ai dám phủ định “THỨC” trong “Danh Sắc duyên THỨC”. Phật lại nói: “(cái mà) Là Danh Sắc nhân, Danh Sắc tập, Danh Sắc bản (gốc), đó chính là cái THỨC này”. Trong Danh Sắc vốn đã có bảy thức rồi, mà bảy thức này cùng Danh Sắc lại phải duyên bám vào một cái Thức khác thì mới có thể hiện hành – một cái “THỨC” khác đó chính là cái nhân, cái gốc của Danh Sắc – thì phải biết rằng một cái THỨC khác mà Danh Sắc duyên bám vào chính là Thức thứ tám đó. Nay Tông Khách Ba tuyệt nhiên không hiểu gì về đạo lý thức thứ bảy, thứ tám trong Thập bát giới của Phật pháp cơ bản Tiểu thừa, không thể gọi là nhà nghiên cứu Phật học chân chính có trí tuệ của thế tục, càng không đủ tư cách gọi ông ta là người Kiến đạo trong Tiểu thừa được, huống hồ là hiểu được ý nghĩa cực kỳ thâm sâu của Bát Nhã trong Kiến đạo Đại thừa mà ngay cả các A La Hán không hồi tâm kia còn không thể hiểu được, Tông Khách Ba chỉ là một kẻ phàm phu, thì sao có thể hiểu nổi? Tông Khách Ba nói: “nhưng về mặt nghĩa là nói Ý thức là căn bản của tất thảy pháp nhiễm tịnh”, song mở “Kinh A Hàm” ra thấy rất nhiều chỗ rõ ràng Phật nói Thức thứ tám là căn bản của tất thảy pháp nhiễm tịnh, chứ không phải là Ý thức, vì sao Tông Khách Ba có thể cố tình xuyên tạc? có thể bẻ cong ý chỉ của Phật? sao có thể không thèm nhìn chỉ ý Phật nói trong chư kinh Tứ A Hàm mà lại kiên quyết chủ trương “Ý thức là căn bản của tất thảy pháp nhiễm tịnh”? Lại nữa, trong “Du Già sư địa luận” quyển thứ 51, Bồ Tát Di Lặc cũng từng nói Thức thứ tám là căn bản của tất thảy các pháp nhiễm tịnh, hoàn toàn khác xa so với tà thuyết của Tông Khách Ba. Bồ Tát Di Lặc nói thế này: “Vì sao lại kiến lập A Lại Da Thức tạp nhiễm hoàn diệt tướng? Là nhằm lược thuyết (nói vắn tắt) A Lại Da thức là gốc rễ của tất thảy tạp nhiễm”. Các kinh, các luận đều nói trong quá trình tu hành, A Lại Da thức nếu đạt đến tập khí nhị thủ bị diệt tận thì sẽ chuyển biến thành Chân Như cực thuần tịnh của Phật địa, đổi tên thành Thức Vô Cấu thứ mười. Trong các cuốn luận do các Bồ Tát như Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân mà Mật tông vẫn thường sùng bái thờ phụng, không cuốn nào mà không khai thị như vậy. Những lời chân thực này, trong chư kinh đâu đâu cũng thấy. Nhưng Tông Khách Ba lại cố ý lờ đi, cố ý nói trái với lời Phật, lời các Bồ Tát, phủ định A Lại Da thức gốc rễ của chư pháp, thậm chí không chịu thừa nhận cả Thức thứ bảy Ý căn trong pháp Thập bát giới, phủ định Thức thứ bảy Ý căn, rồi cố tình giải thích bóp méo lời Phật nói trong các kinh, kiên trì cho rằng Ý thức là gốc rễ của tất thảy các pháp nhiễm tịnh, cố ý đoạn chương thủ nghĩa (cắt câu lấy một phần nghĩa) để tô điểm cho chủ trương của ông ta, chứng tỏ không phải là người tu học Phật pháp thực sự. Tông Khách Ba vốn chưa chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng, không biết không chứng được Thức thứ tám A Lại Da, thì có thể chứng minh được rằng ông ta chưa từng ngộ nhập Bát Nhã Đại thừa, chưa hề có Kiến địa của Kiến đạo Đại thừa. Phàm phu chưa ngộ như thế mà vọng hành (hành động bừa bãi), phủ định Thức thứ tám gốc rễ của pháp Đại thừa, theo “Kinh Lăng Già” nói: “Kẻ phỉ báng Bồ Tát Tạng, đã nói lời đó ra thì thiện căn đều đoạn”, dựa vào lời Phật trong kinh này, Tông Khách Ba đã trở thành kẻ Nhất Xiển Đề - mọi thiện căn đều đoạn tận, sau khi xả báo tất đọa địa ngục. Cho nên, những lời thuyết pháp của ông ta không đáng tin cũng là điều dễ hiểu. Lại nữa, thánh giả Nhị thừa chỉ chứng được Không tướng của chư pháp, thực chứng được các pháp Uẩn Xứ Giới nhất thiết giai không (tất thảy đều không). Sở chứng như thế đều là dựa vào các thế gian pháp Uẩn Xứ Giới trong thế gian mà quan sát thấy chúng vô thường cho nên Không, vì thế mà chứng thực được cái Không của “Tâm giác tri Ngã” vô thường, chứng thực Ý thức vô thường cho nên Không, vĩnh viễn không còn chấp nhận Ý thức là cội nguồn của chư pháp; rồi lại tiến đến đoạn trừ Thức thứ bảy Ý căn tâm Không làm chủ, rồi đoạn Ngã chấp; đoạn được Ngã kiến và Ngã chấp như thế thì chứng được nhân Không; Tất cả những cái biết, cái đoạn đó đều là pháp thế tục – là hữu vi pháp thế tục của Thập bát giới trong Tam giới, cho nên gọi là Thế tục đế. Các Bồ Tát cũng tu chứng chư pháp Không tướng như thế mà chứng nhân Không, nhưng lại tu thêm Thực Tướng Bát Nhã, cầu chứng Thức thứ tám, nhờ đó mà có thể sinh khởi được trí tuệ Bát Nhã. Khi chứng được Thức thứ tám, thì trí tuệ Bát Nhã liền bắt đầu sinh ra, liền hiểu được Mật ý lời Phật trong các kinh Bát Nhã. Từ việc đã chứng được Thức thứ tám mà hiện tiền quán sát chứng biết cội nguồn của chư pháp chính là Thức thứ tám này, cho nên mới có thể sinh khởi trí tuệ Bát Nhã; hiện quan tất cả pháp giới đều do Thức thứ tám này mà có, hiện quan cội nguồn của tất thảy pháp giới chính là Tâm thức thứ tám, vì thế mới phát khởi “Pháp giới thể tính trí”. Tu chứng Thức thứ tám như thế mới là Không tính nói đến trong hệ kinh Bát Nhã, không phải là Không tướng Ngũ uẩn mà Tiểu thừa chứng được. Các A La Hán không hồi tâm cũng không thể biết được Thức thứ tám mà các Bồ Tát chứng được là cái gì, cho nên mới nói Thanh Văn định tính chỉ chứng được Không tướng mà không chứng được Không tính, tuy không còn gọi họ là phàm phu nữa nhưng vẫn gọi là kẻ ngu trong pháp Đại thừa. Nay Tông Khách Ba không biết cũng không chứng được Không tính, lại còn đem Không tướng mà Tiểu thừa chứng được và Không tính mà pháp Đại thừa chứng được trộn lẫn với nhau để nói; lại còn ngộ nhận về Tâm ý thức, coi nó là gốc rễ của tất cả các pháp, rơi vào trong thường kiến của ngoại đạo thường kiến, mà tự nói mình đã chứng đã hiểu được đạo Giải Thoát Thanh Văn trong Phật pháp, kỳ thực là hoàn toàn chẳng hiểu gì về đạo Giải Thoát của Phật pháp cả. Còn chưa chứng được giải thoát Sơ quả của Thanh Văn thì nói gì đến giải thoát trong Đại thừa? Đó là vì Sơ quả của Thanh Văn buộc phải đoạn trừ Ngã kiến trong “Ý thức thường trụ bất hoại”, trong khi Tông Khách Ba lại chấp thủ coi Ý thức là pháp thường bất hoại. Từ tri kiến của phàm phu địa mà (Tông Khách Ba) nói rằng “Người Tiểu thừa có thể xuất lìa Tam giới, cho nên cũng chứng được Không tính Bát Nhã”, hoàn toàn không biết phân biệt ranh giới giữa “Không tính Bát Nhã” và “Không tướng Uẩn Xứ Giới”, trí tuệ thô thiển như vậy, lấy đâu ra thánh mà xưng? Thế nhưng Hoàng giáo của Mật tông lại phong ông ấy là “Chí Tôn”. Qua đó có thể thấy các thày của Hoàng giáo tuyệt đối không phải là những người Kiến đạo, bởi họ đều không có phần trong Kiến đạo của Tam thừa. Cho nên, các A La Hán trong Tiểu thừa chỉ cần chứng được Không tướng Uẩn Xứ Giới là chứng được quả Giải thoát, có thể thoát ly cái khổ sinh tử trong Tam giới, không bắt buộc phải chứng được Không tính mới có thể lìa sinh tử khổ. Tất cả các thày trò Hoàng giáo của Mật tông đều nên biết rõ điều này, thì sau mới không tránh khỏi hiểu sai về Phật pháp. Tông Khách Ba đã phủ định có Thức thứ bảy, thứ tám, thì cái Chân Như mà ông ta nói chỉ là Ý thức không chấp nhiễm pháp (pháp ô nhiễm bất tịnh) – vì Hoàng giáo coi Ý thức là Tâm cuối cùng. Bởi thế mà Tông Khách Ba mới coi Ý thức là Kim Cương tâm: “Cái/người Tát Đỏa đó, Chân Như là Bồ Đề Tâm chỉ có một vị vô hý luận, vô phân biệt trí, tức là Kim Cương Tát Đỏa Tự tính. Nó không bị hoại bởi sự phân biệt, cho nên gọi là Kim Cương. Cái gì là Bồ Đề Tâm trong đó đây? Đó là Tâm tính vốn tịnh liên tục nối tiếp từ vô thủy đến nay của chư Bồ Tát, là Pháp thân dần dần trừ các pháp cấu bẩn, đạt cứu cánh tịnh ở chư địa (quả vị Thập địa), đó chính là thắng nghĩa Bồ Đề Tâm, vô thủy vô chung là bậc đệ nhất. Trừ phá trừ được các chướng ngại như tường vách, giả danh mà sinh ra hư không. Ví dụ lấy tướng hư không đó để biểu thị nó, trong đó có danh, có đầy đủ các tướng. Chân Như tính cũng vậy, do lìa các chướng ngại mà minh hiển, giả lập mà sinh ra tên gọi, cho nên không có thủy chung sinh diệt”. (21-322) Tông Khách Ba đã phủ định sự tồn tại của Thức thứ bảy, thứ tám, lại đưa ra những lời phát biểu về Chân Như Tâm như thế, nghĩa là nói Tâm ý thức (Tâm giác tri) do lìa chướng ngại mà minh hiển nên gọi nó là Chân Như. Từ việc lìa chướng ngại mà minh hiển để nói Tâm ý thức đã biến thành Chân Như, vì thế (Chân Như) chỉ là giả lập sinh ra tên gọi. Sự bẻ lý do hiểu sai như thế mà nói ý rằng “Chân Như vốn không có mà nay có, vì lìa chướng ngại nên giả lập tên mà được sinh ra, Ý thức vốn dĩ là vô sinh”, cho nên Tông Khách Ba mới nói Tâm ý thức giác tri vì thế “cho nên không có thủy chung sinh diệt”, từ đó xây dựng Tâm ý thức “do lìa chướng ngại mà minh hiển” và biến thành Pháp thân. Qua lời Tông Khách Ba nói như thế, chứng tỏ rằng đó chỉ là ngoại đạo kiến của phàm phu chưa đoạn được quan niệm “Tâm Ý thức (là) thường”. Thế nhưng trong các kinh Tứ A Hàm, Phật đã sớm phá bỏ quan niệm ““Tâm Ý thức (là) thường”, nói nó là cái “Ngã thường bất hoại” trong quan niệm của ngoại đạo thường kiến, dạy rằng những người ngoại đạo nhất quyết chấp trước Tâm ý thức bất hoại là ngoại đạo thường kiến, vì thế Tông Khách Ba không nên kiên trì bám chấp vào tà kiến “Tâm ý thức giác tri thường bất hoại diệt”, các hành giả Mật tông cũng không nên tin theo tà kiến của ông ta mà cho rằng Tâm ý thức giác tri là Tâm thường hằng bất hoại diệt, mà nên hiện tiền quan sát chân lý Ý thức trong Ngũ vị (lúc ngủ say, ngất, chính tử vị, Vô tưởng định và Diệt tận định) chắc chắn sẽ bị đoạn, bị diệt, sau đó cầu chứng ngộ Tâm thức thứ tám, thì mới có thể chứng giải thực sự được chân chỉ của Bát Nhã. Tông Khách Ba lại nói thế này: “… ‘Ban Tạt’ là nói Không tính cảnh và Năng duyên trí, hai thứ này vô phân biệt, gọi là Kim Cương, vì nó không bị nghịch phẩm làm hoại, có thể phá gãy trị phẩm, vô thủy chung. Cũng như pháp giới vô thủy vô chung, duyên vào tâm đó mà có tên đó; lấy việc duyên vào Chân Như để làm (sinh) tướng đó. “Bà Bạt Phọc” gọi là Tự tính, do Tự tính tịnh tức trụ vào thể tính ly cấu”. (21-500) Tông Khách Ba coi “tất thảy pháp Không bên ngoài Như Lai Tạng”, coi “tất thảy pháp Không của Uẩn Xứ Giới” – tức chư pháp vô thường Không là Không tính phải chứng trong Phật pháp, dựa vào nhận định này để nói rằng cái Trí năng duyên vào “Không tính” này là Năng duyên trí; sau đó chủ trương “Không tính cảnh và Năng duyên trí, hai thứ này vô phân biệt, gọi là Kim Cương”, tức là đem gộp cái “Tâm ý thức giác tri nhận biết được tất thảy pháp Không” và “Không cảnh tất thảy pháp Không” vào làm một, vì thế mới nói Không tính cảnh và Năng duyên trí, hai thứ này vô phân biệt, gọi là Kim Cương. Như thế là coi Ý thức là pháp không sinh không diệt, trái ngược với những điều Phật nói trong chư kinh Tam thừa, rơi vào cảnh giới của Ý thức, chưa đoạn Ngã kiến, thì sao có thể gọi là thành giả đã chứng ngộ được? mà lại còn được phong làm “Chí Tôn”? Thật không đúng chính lý chút nào. Tông Khách Ba nhận lầm Ý thức là Tâm Không tính như vậy, không biết rằng Phật đã sớm bác bỏ Ý thức trong các kinh Tứ A Hàm của Phật giáo nguyên thủy rồi, nói đó là pháp duyên khởi, ba thứ Căn Trần Xúc sinh ra Ý thức – tức là nhờ sự tiếp xúc giữa Ý căn và Pháp trần, mới được A Lại Da thức sinh ra. Vì là pháp duyên khởi, đêm đêm đoạn diệt, sáng hôm sau lại tái sinh; khi ngất xỉu cũng đoạn diệt, khi năm Thắng nghĩa căn đều bình thường thì mới có thể tái sinh; trong Chính tử vị, Diệt tận định vị và Vô tưởng định vị cũng đều như thế cả. Còn sau khi đầu thai thì vĩnh viễn đoạn diệt, không thể đi được sang kiếp sau – vì nhờ vào việc hiện tiền quan sát Ý thức đời này của tất cả hữu tình đều không đến từ kiếp trước, đều không thể khôi phục trí nhớ để biết được chuyện tiền kiếp giống như nhớ lại chuyện ngày hôm qua và chuyện thuở nhỏ được. Cái Tâm ý thức theo duyên mà khởi, theo duyên mà diệt như thế, Tông Khách Ba lại kiên trì chấp trước cho rằng nó là cái Tâm vô thủy vô chung, ra sức biện rằng Tâm ý thức là Tâm Chân Như, cả vú lấp miệng em như thế, đúng là hồ đồ vô cùng tận. Tông Khách Ba lại nói: “Thông đạt Tự tâm chân thực (thông đạt cái lý Ý thức Tự tâm chân thực), tu tập tăng trưởng, đến khi tất thảy vô minh đều diệt tận, các tướng như Sắc uẩn là chỗ dựa (sở y) chân thực của nội Tâm đều không hiển hiện nữa thì biến thành Phật thân, thì nhận biết thấy phàm thân là khách pháp (khách đối lập với chủ) do nhân tạp nhiễm sinh ra, còn Phật thân là tận hư không tế vĩnh bất ly pháp. Như “Khẩu thụ luận thích” dẫn “Tập trí Kim Cương kinh” nói: “Này Bí Mật Chủ! Con rắn bằng dây thừng không có thật, nhưng do huyễn ế (hoa mắt)[1] mà vọng hiện. Nếu như các sĩ phu đoạn trừ được cái tật hoa mắt này, thì chỉ thấy dây thừng, không còn thấy những chuyện khác. Này Bí Mật Chủ! Tại chỗ Thường đó mà ngộ nhận rằng những thứ như Sắc cũng không phải là có thật, nhưng vì tham trước các tập khí Sắc mà hiện ra. Nếu các sĩ phu tu đạo Chân thực, điều khiển Biến kế chấp, chỉ thấy Thường, không thấy những việc khác”. Cái “Thường” ở đây là tên gọi khác của Tỳ Lô (Giá Na) Phật”. (21-541~542) Tông Khách Ba coi Tâm ý thức là Tâm chân thực bất hoại, không lìa khỏi Ngã kiến của thường kiến ngoại đạo; cũng không biết, không chứng được Thức thứ bảy Ý căn từ vô thủy kiếp đến nay vốn có không đoạn, thì tất sẽ không biết được Biến kế chấp của Ý căn ở đâu. Người không biết, không chứng được Biến kế chấp của Ý căn mà nói có thể đoạn được Biến kế chấp, thật quá vô lý! Phải như người Nhị thừa tuân theo khai thị của Phật mà chứng biết được Thức thứ bảy Ý căn của chính mình, sau đó trong Tứ uy nghi (đi đứng ngồi nằm) của mình mới có thể kiểm tra được Biến kế chấp tính của Ý căn ở đâu, mới có thể tu đoạn Biến kế chấp tính của nó trong Tứ uy nghi. Vì duyên cớ đó mà người Nhị thừa tu đoạn Ngã chấp, trở thành A La Hán, mới gọi là chính tu trong đạo Giải Thoát. Tông Khách Ba vừa không biết vừa không chứng được Thức thứ bảy Ý căn của mình, thì làm sao có thể thể nghiệm được Biến kế chấp tính của thức thứ bảy Ý căn ở đâu mà đoạn trừ nó? Vốn đã không thể đoạn trừ được Biến kế chấp tính của Ý căn mà nói suông rằng có thể đoạn, làm sao tin được? Thế nhưng ông ta lại được thày trò Hoàng giáo của Mật tông phong làm “Chí Tôn”, thật là vô nghĩa. Bởi Tông Khách Ba đó đã phủ nhận sự tồn tại của Thức thứ bảy Mạt Na Tâm rồi, nên chứng tỏ ông ta thực sự không biết cũng không chứng giải được Sơ quả của Thanh Văn trong đạo Giải Thoát. Tông Khách Ba cho rằng Tâm giác tri ở nội tâm dựa vào Sắc uẩn mà có, cho nên mới nói Sắc uẩn là “chỗ dựa chân thực của nội Tâm”. Vì Sắc uẩn là vô thường, có ảo, cho nên Tâm ý thức giác tri đó theo đó cũng là thứ vô thường. Thế nhưng Sắc uẩn nếu có thể thông qua quán tưởng thiên thân to lớn, mà tu học “Phật pháp” của Mật tông thì có thể chuyển biến thành “Phật thân” do quán tưởng mà thành. Do Phật thân thường trụ bất diệt, cho nên “Sắc uẩn là chỗ dựa chân thực của nội Tâm” cũng trở thành pháp thường trụ. Cái Sắc uẩn sở y đã thành pháp thường trụ, thì Tâm ý thức nội tâm năng y đó cũng có thể theo đó mà chuyển biến thành pháp chân thực. Thế nhưng ông ta không biết rằng tuy Tâm ý thức phải dựa vào Sắc uẩn mới được sinh ra, nhưng Sắc uẩn chỉ là một loại trong bốn loại Câu hữu y (chỗ dựa) của Tâm ý thức. Bốn loại Câu hữu y là A Lại Da thức, Mạt Na thức, Sắc uẩn (chỉ ngũ căn chưa bị hủy hoại) và Pháp trần. Sau khi có đầy đủ bốn loại Câu hữu y này, thì nó cũng không hoàn toàn nhờ Sắc uẩn để được sinh ra, mà do thức thứ tám A Lại Da sinh ra. Cái lý này đều được ghi chép đầy đủ trong kinh A Hàm, tức như Phật nói: “(cái mà) Là Danh Sắc nhân, Danh Sắc tập, Danh Sắc bản (gốc), đó chính là cái THỨC này”. Cái nhân của Danh và Sắc này, cái gốc của Danh và Sắc này chính là “THỨC” này, mà Sắc uẩn trong “Danh” đã có bảy thức (Lục thức và Ý căn Mạt Na thức) rồi, thì phải hiểu rằng “THỨC” này là cái “THỨC” trong “THỨC duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên THỨC”. Cho nên, cái mà “nội tâm chân thực dựa vào” tuyệt đối không phải là cái Sắc uẩn mà Tông Khách Ba nói, mà là thức thứ tám A Lại Da tâm. Tông Khách Ba đã thừa nhận pháp Nhị thừa trong Tứ A hàm đúng là Phật nói, mà trong Tứ A Hàm lại nói trắng rằng “Danh Sắc” duyên vào “THỨC” mà sinh ra, thì sao có thể giảo biện nói ngược rằng “Ý thức dựa vào Sắc uẩn mà có”? sao có thể giảo biện nói ngược rằng “Sắc uẩn là chỗ dựa chân thực của nội tâm”? Không đúng chính lý chút nào! Sắc uẩn đã không phải là chỗ dựa chân thực của Ý thức, thì Tông Khách Ba việc chủ trương “Tâm ý thức sinh diệt vô thường sau khi quán tưởng thiên thân thành công, lại chuyển biến thiên thân thành Phật thân, thì có thể khiến cho Phật thân thường trụ bất hoại này trở thành chỗ dựa (sở y) của Ý thức; Vì Phật thân bất hoại, nên Ý thức cũng thường trụ vô hoại” là bẻ cong chính lý, tức là không cần phải có thức thứ tám là Thực Tướng Tâm, là có thể phủ nhận sự tồn tại của thức thứ tám Như Lai Tạng. Thế nhưng Sắc uẩn (dù là Sắc thân thọ dụng ở nhân gian, hay là “thiên thân, Phật thân” do quán tưởng mà thành) cũng đều là pháp biến dị vô thường, cũng đều phải dựa vào Thức thứ tám mà Danh Sắc duyên bám vào mới được sinh ra, chứng tỏ nó chỉ là pháp duyên khởi duyên diệt. Pháp Sắc uẩn duyên khởi duyên diệt mà có thể trở thành chỗ dựa của pháp thường trụ bất hoại, lý đó sao có thể thông được? Thế mà Tông Khách Ba trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của mình đã nói xuyên tạc, giảo biện như thế, tại sao các thày Hoàng giáo Mật tông lại không biết cái sai lầm đó, tại sao Đạt Lai Lạt Ma các đời lại không biết chỗ hoang đường đó, lại còn phong ông ta là bậc Chí Tôn của Hoàng giáo. Vô trí đến thế là cùng! Thế nhưng, chư kinh Tam thừa cũng chưa từng nói Sắc uẩn là chỗ dựa chân thực của Ý thức hoặc “thiên thân Phật thân” do quán tưởng mà thành. “Thiên thân” do quán tưởng mà thành tuyệt đối không phải là thiên thân thật, “Phật thân” do quán tưởng mà thành cũng tuyệt đối không phải là Phật thân thật, cả hai đều là thứ hư vọng. Tông Khách Ba dùng pháp hư vọng để sinh ra các loại vọng tưởng, muốn đem pháp hư vọng này biến thành pháp Chân thực, trước sau đều không thể chạm được vào thức thứ tám Như Lai Tạng của Thực Tướng pháp giới. Đã không biết không chứng được Như Lai Tạng của Thực Tướng pháp giới, còn chưa trở thành Bồ Tát thất trụ vị, huống hồ có thể thành Phật cứu cánh? mà lại giảo biện có thể dựa vào “tu hành” pháp hư vọng này để thành tựu Phật đạo? Liệu có cái lý ấy chăng? Qua việc bẻ lý “thông đạt Tự tâm chân thực” của Tông Khách Ba trong đoạn này, có thể thấy ông ta rất giỏi giảo biện. Tông Khách Ba còn nói rằng: “Đại sớ trả lời chỗ khó này rằng: ‘những người ngu độn nói Uẩn Xứ Giới lìa vi trần tập hợp làm thể, trí tuệ duy tâm không nên tự chứng’, quả thực không phải như vậy. Phải từ khách tâm “có tập khí lực. Chỗ này nói cái Uẩn Xứ Giới là nói tập khí của khách tâm, vì có cái lực này nên tâm mới có khổ lạc. Nếu quan sát bằng thắng nghĩa, không chỉ thân này có tổn ích” mà nói rộng như vậy. Ý là ông ta nói nếu không có cái thân do vi trần tập hợp, mình tâm không thể thụ lạc, không hợp chính lý. Vì phải nhờ từ sức mạnh tập khí nội tâm thì mới có thể chịu khổ lạc… Như trong giấc mộng, tuy thân vi trần nằm trên giường không có tổn ích, nhưng thân trong mộng lại đến được chỗ khác gặp chuyện tổn ích mà chịu khổ lạc, cho nên chịu khổ lạc không cần phải có thân do vi trần tập hợp. Ý nói nếu tổng thành lập (được cái lý) thụ nhận các loại hỷ lạc không cần phải có thân vi trần tập hợp, thì cũng có thể thành lập thụ nhận riêng diệu lạc bất biến, không cần có cái thân đó… Điều này như trong phẩm thứ năm nói: ‘Thân tịnh vô trần như hư không, tất thảy tướng hảo đều viên mãn, các loại tất cả ba thế gian, thanh tịnh lìa chướng như mộng hiện. Ngữ âm không đoạn đủ đa âm, có thể chuyển trong tâm người khác, tâm mãn diệu lạc không lay động, trong tất các thời Câu sinh trì’. Ở đây nói rõ cái sắc thân không diệt tận vi trần thanh tịnh vô ngại đồng như hư không, tướng hảo trang nghiêm, diệu lạc bất biến (chỉ lạc thụ đệ tứ hỷ trong Song thân pháp) là Tâm”. (21-559~560) Tông Khách Ba nhất tâm muốn chứng được cái tà lý “Tâm ý thức có thể tồn tại độc lập ngoài thân căn”, cho nên mới đẻ ra cái tà thuyết đó. Tâm ý thức trong nhân gian, cho đến chư thiên ở Sắc giới đều không thể tồn tại độc lập bên ngoài thân căn được, nó buộc phải nương dựa vào thân căn thì mới có thể hiện hành vận tác. Trong Vô sắc giới thiên, thì (Tâm ý thức) phải dựa vào định lực của Tứ không định, Ý căn và mệnh căn do A Lại Da thức nhiếp trì, nó mới có thể hiện hành tồn tại được. Cho nên cái thuyết “nằm ngoài thân căn, Ý căn mà có thể tự chịu khổ lạc một mình” của Tông Khách Ba không phải là chính lý vậy!
|
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |