The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  CHƯƠNG 6: NHƯ LAI TẠNG KIẾN Tiết 1: Mật tông luôn coi Ý thức của thường kiến ngoại đạo là Như Lai Tạng

 CHƯƠNG 6: NHƯ LAI TẠNG KIẾN

 

Tiết 1: Mật tông luôn coi Ý thức của thường kiến ngoại đạo là Như Lai Tạng

Các tổ sư Mật tông xưa nay vẫn thường luôn coi Ý thức là Như Lai Tạng mà Phật giảng, đồng thời lấy việc Tâm ý thức giác tri không chấp trước bản thân Tâm ý thức, gọi là “Bản tâm trụ”, như thế bảo là đã chứng ngộ quả Giải thoát. Có thượng sư Mật tông nói rằng: “Nay giảng trước về đạo lý của Bản tâm trụ: Tâm từ thân mà có, nếu không có thân thể thì tâm cũng không có. Cho nên thức do Căn sinh, có Căn thì mới có Thức. Thức lại hiển hiện nhờ Trần. Không có Trần thì Thức không thể khởi được. Cho nên nếu không có Sắc thì không nhìn thấy, không có Thanh thì không nghe thấy, không có Hương thì không ngửi thấy, không có Vị thì không nếm thấy, không có Xúc thì không cảm giác thấy, không có Pháp thì không nghĩ tưởng thấy. Cho nên ba thứ Căn, Trần, Xúc không được thiếu một. Lục căn, Lục trần, Lục thức nương dựa vào nhau, gọi là Thập bát giới. Thập bát giới đều là nhân duyên tụ hợp mà sinh ra, Tự tính vốn Không, hoàn toàn thuộc về hư vọng, không thể chấp trước, chấp vào là bất lợi. Nhưng không có Thập bát giới thì cũng không thể thành Phật, phải tu nó thì sau mới đắc thành. Bản thân Thập bát giới, vốn dĩ là thứ hư vọng, thế nhưng là giả mà không phải giả, là thật mà không phải là thật, như là mặt trăng dưới nước. Nếu nói là giả, rõ ràng ở đó; nếu nói là thật lại không thể tóm được. Cái này không có cái kia, Tự tính Không vậy”. (62-67)

Như vậy mà nói Thập bát giới phi chân phi giả, gọi là cái Vô tha Tự tính Không, không phải là Trung đạo của Phật pháp. Tâm ý thức trong Thập bát giới cố nhiên là không có Tự tính, đó là vì nó không có tính thường hằng bất hoại, dựa vào cái khác mà được sinh ra, vì tính của nó vô thường tất hoại nên gọi là Không, cho nên nói nó Vô tự tính Không. Thế nhưng đó không phải là Không tính mà Phật nói. Không tính mà Phật nói là chỉ Thức thứ tám Như Lai Tạng của chúng sinh – Bản Tế của Niết Bàn vô dư, không hỗn tạp gọi là Không tính đồng nhất.

Nay người trong Mật tông cho rằng Ý thức tức là Tâm Không tính, Bản tâm, coi Tâm ý thức không chấp trước chính mình thì gọi là Bản tâm trụ. Tri kiến như thế vẫn chỉ là coi Tâm ý thức là Tâm bất hoại. Người mà coi Tâm ý thức là Tâm bất hoại chính là phàm phu chưa đoạn Ngã kiến, vì Ý thức không phải là Bản tâm, vì Ý thức là “Ngã thường bất hoại” mà thường kiến ngoại đạo hay nói đến, vì Phật nói Thức thứ tám A Lại Da thức mới là Bản tâm. Nay có thượng sư Mật tông tự nói “Tâm từ thân mà có, nếu không có thân thể thì tâm cũng không có”, thì biết ngay Tâm mà Mật tông nói đến chính là Tâm ý thức giác tri. Họ lại muốn đem Tâm ý thức giác tri này tu hành để biến thành Chân Tâm Không tính, thì không phải là thủ chứng Thức thứ tám Như Lai Tạng vốn dĩ tồn tại của mình như Phật đã tuyên thuyết, hiểu sai trước ý chỉ thực sự của Phật pháp, cũng không phải là hành giả chính tu trong Phật pháp. Nay trong đoạn văn này, thấy rõ ràng rằng Bản tâm mà Mật tông nói chính là Ý thức của Tâm giác tri, chưa đoạn Ngã kiến, bị rơi vào trong Ngã kiến mà nói mình đã đoạn Ngã kiến. Những người như thế, đều là những người không biết, không chứng Như Lai Tạng, cũng đều không biết gì về chính tri, chính kiến trong tu chứng Như Lai Tạng.

Mật tông lại còn coi linh hồn là tâm thường trụ bất hoại: “…vì dục tâm quá thịnh nên Phạn môn (Chú thích gốc: Tức Phạn khổng, còn gọi là Đỉnh môn, là huyệt đạo chính giữa đỉnh đầu người) bị tắc, sau này khi chết, linh hồn sẽ không thoát ra đường này. Vì đã không thoát ra theo con đường này nên tất sẽ dẫn đến đọa lạc. Những người hút thuốc, Phạn môn của anh ta bị khói thuốc làm tắc nghẽn, khi chết cũng không thể thoát ra bằng đường này. Nếu không thoát ra theo con đường này, tình thế tất khiến nó phải thoát ra đường khác. Nếu đi xuống thì thoát ra qua Cốc đạo (giang môn – hậu môn), chắc chắn sẽ đọa lạc khỏi phải nghi ngờ. Cho nên hút thuốc rất không hay, người tu pháp đặc biệt nên kiêng kỵ. Vì linh hồn thoát ra qua Phạn môn, thì mới có thể thành Phật. Các người nếu lỡ nghiện ngập thì phải nhanh chóng cai ngay, đừng tự làm hỏng mình”. (62-68)

Qua những lời này, có thể thấy rằng linh hồn là Bản thể của sinh mệnh, khác xa so với Phật thuyết. Lại nữa, linh hồn là thể sinh mệnh thường hằng mà những người theo tín ngưỡng dân gian và ngoại đạo thường nói, kỳ thực là ngộ nhận Trung âm thân là thể căn bản chân thực của sinh mệnh, không phải là chính nghĩa của Phật pháp. Phật pháp nói cái mà xả thân khi chết, là nói về Thức thứ tám đi sau đến trước làm chúa công, chứ không bao giờ chỉ về linh hồn cả, cũng không phải là Trung âm thân mà người thế tục thường ngộ nhận. Cho nên mới nói thuyết này của Mật tông là tà kiến, không phải là Phật pháp.

Việc xả thân của Thức thứ tám, cũng không phải như Mật tông nói tụ thành Minh điểm một chỗ, rồi sau đó thoát ra từ một chỗ nào đó của cơ thể; mà là nói Thức thứ tám biến khắp toàn thân, biến khắp Thập bát giới mà trì giữ, dựa vào chính kiến đó mà nói rằng các chúng sinh với nghiệp báo khác nhau, khi chết thì sẽ xả (rời thân) từ chỗ nào trước, xả ở chỗ nào sau cùng; đồng thời nói xả thân một phần thì Trung âm thân sẽ hình thành một phần, xả thân chín phần thì Trung âm thân hình thành chín phần, cho đến khi Thức thứ tám hoàn toàn xả lìa, thì Trung âm thân hình thành đầy đủ, nghĩa là nói người chết đã hoàn toàn xả báo.

Rồi trong Phật pháp còn nói đến những người chưa ngộ nói ngộ, phỉ báng Tam Bảo, phá hoại chính pháp thì sẽ không hiện khởi Trung âm thân. Những người đó khi xả một phần sắc thân ở Giới này thì ở địa ngục sẽ hình thành một phần thân địa ngục; khi xả lìa năm phần sắc thân ở Giới này thì ở địa ngục sẽ hình thành năm phần thân địa ngục; khi xả mười phần sắc thân ở Giới này thì ở địa ngục sẽ hình thành mười phần thân địa ngục, tức không trải qua giai đoạn Trung âm thân trước để thụ sinh sau. Trong quá trình xả thân, có nói về chỗ xả trước, chỗ xả sau, tức là nói có một chỗ nào đó là chỗ xả sau cùng, chứ không phải là nói Thức thứ tám từ khắp thân tụ hợp lại một chỗ, sau đó xả thân một lúc từ một chỗ, một điểm đó. Cho nên, pháp linh hồn xả thân của Mật tông toàn là vọng thuyết (nói láo). Thượng sư Mật tông có lúc vọng thuyết rằng Minh điểm tức là Căn bản Thức A Lại Da, khi chết thì Minh điểm này sẽ tụ lại một chỗ, sau đó từ một chỗ đó lìa khỏi sắc thân. Đó đều là vọng thuyết, đều trái ngược với thánh giáo lượng lời Phật thuyết, cũng trái ngược với những gì mà Bồ Tát đã chứng Đạo chủng trí hiện lượng nhìn thấy.

Thuyết pháp của Mật tông thường hay tự thác loạn, có lúc thì coi Tâm ý thức giác tri trong tu hành pháp tu song thân là “Pháp tính Chân Như thanh tịnh”; có lúc thì coi Tâm giác tri nhất niệm bất sinh trong lúc đả tọa là Chân Như ở Phật địa Pháp tính thanh tịnh; có lúc lại coi Minh điểm là Pháp thân của Phật và là cội nguồn sinh mệnh của chúng sinh; có lúc thì lại coi quang minh (ánh sáng) do quán tưởng mà thành là Chân Tâm Như Lai Tạng; có lúc lại chủ trương trong Mật kinh rằng: Nguyệt luân do quán tưởng mà thành chính là Chân Tâm Như Lai Tạng…Các loại thuyết pháp khác nhau, khiến cho người học tu học thác loạn, chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Người có trí mà học theo họ, tất sẽ sinh nghi hoặc rằng: “Tại sao những gì nói trong kinh tục Mật tông lại tiền hậu bất nhất, tự mình mâu thuẫn với chính mình?”. Thế là các thày Mật tông bèn ra vẻ thần bí, yêu cầu người học tiếp tục tu học, ra sức nói rằng: “Tu cho đến cùng sẽ biết nó, chứng nó, cho nên gọi là Mật”. Người học không biết gì thì bị họ mê hoặc, tiếp tục tu học, tốn phí không biết bao nhiêu thời gian và tiền tài, cứ như thế trải hết một đời cho đến lúc già, cuối cùng chẳng thành cái gì, đọa vào trong tà tri, tà kiến, tà tu, tà chứng của ngoại đạo, ôm hận mà chết. Phàm những việc này đều là do bị tà giáo của các thày Mật tông gây ra, cứ nghĩ mà thấy đau thật!

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31463


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg