The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 2: Thụ cam lộ kiểu Tĩnh lự

 Tiết 2: Thụ cam lộ kiểu Tĩnh lự

Cách thụ cam lộ kiểu “Tĩnh lự - Thiền”, tổng cộng có năm cách, tường thuật lần lượt như sau:

Thứ nhất, thụ cam lộ ẩm thực. Nếu muốn ăn cam lộ ẩm thực, “cần kiêng ăn đồ cay, đồ quá mặn, đồ quá nóng, và các thực phẩm thô kém như tỏi núi, rượu mạnh, rượu chua, thịt lên men, cá, đồ lên mầm (61-367)”, sau đó mới có thể ăn cam lộ ẩm thực này. Cam lộ ẩm thực lại chia làm năm loại như sau: 1. “Là thứ nối tiếp cam lộ, tức cây thảo thuộc loài tỏi trắng, ăn vào miệng không cay, sinh trưởng lá rau, canh mì, hoặc đồ ăn có chế thuốc, bơ, (sau khi ăn) thì huyết mạch sẽ dần không nổi hằn lên, sinh ra tối thượng định (61-368)”; 2. “Loại nhai mút nước quả Tạng Thanh trong miệng, gọi là bí quyết ‘hầm sữa nước’ (61-368)”; 3. “Lại lấy một ít bơ, sữa 3 lít, nước 1 tiền, hòa đều rồi sắc, cho đến khi nước cạn trước, rồi đến nước sữa cũng cạn, cho nó sền sệt hơi bắt đầu bốc khói khét, thì lấy ra đổ vào cái nồi sạch, mỗi lần bụng đói thì ăn một miếng; làm như thế một năm thì gân mạch cũng sẽ không nổi hằn lên nữa (61-368)”; 4. Lại có cái gọi là “Tam quả luyện mật”: “Dùng 2/3 phần là quả Tạng Thanh, 1/3 phần là Mao Kha Tử, một chút xíu Cam Tử, ba thứ nghiền nhỏ, hòa đường trộn đều, nghiền tiếp thành bột, trộn với mật ong làm thành hoàn. Ăn trong một năm, thì gân mạch không nổi phù lên nữa (61-368)”; 5. “Đại hương luyện mật”: Sau khi thực hành loại bỏ (kiêng ăn) một số thức ăn như đã nói ở trên, lấy riêng phần Đại hương (phân) đã loại bỏ phần thức ăn thô xấu, đặt vào một tấm đá sạch, lấy dao gỗ cán phẳng ra, phơi gió cho khô. Lại lấy riêng mật và bơ trộn đều, thêm một chút nước, sắc cho đến khi nước khô thì dừng. Cùng Đại hương đã phơi khô nghiền thành bột, đem hai thứ trộn lẫn với nhau, chế thành hoàn to cỡ hạt phân dê. Uống một viên vào sáng sớm ngày mùng một,… cứ như thế ăn hết một năm, thì sẽ đạt thành tựu tịch cốc không nổi gân mạch. Các pháp này sau khi cúng cho Bồ Đề tâm, trở thành cam lộ tối thắng” (61-368~369).

Thứ hai, thụ cam lộ hành chỉ. Người muốn thụ nhận cam lộ kiểu này, thì cũng có cái cần phải đoạn trừ (phải kiêng tránh) trước, sau đó mới được thụ cam lộ này: “Những việc cần kiêng: ở lâu bên lửa cháy to, phơi dưới nắng mặt trời gay gắt, mồ hôi vã ra như tắm, mệt mỏi hư thoát, thức đêm mất ngủ. Muốn “thụ” phải nắm vững yếu quyết hành chỉ (dừng nghỉ). Trước hết phải tập ngồi kiết già, thân khẩu ý ba nghiệp phải bình lặng, thư thái, tránh xa những tâm lý kinh sợ…, gọi là ‘thụ cam lộ’ thư nhàn” (61-369).

Thứ ba, thụ cam lộ khí: “Trước khi tu phải truyền thụ bất kỳ chi nào trong bảy chi, hoặc phải tu mệnh cần khí đặc biệt thù thắng lúc tờ mờ sáng” (61-370).

Thứ tư, thụ cam lộ Minh điểm: “tu bất kỳ yoga Minh điểm nào, sau đó đặc biệt thực tu chủng tử bạch hào giữa My (lông mày) để có thể sản sinh sự tối thắng trong thân lực, nhờ đó nhanh chóng sinh thiền định. Những thứ khác thì tu cảm lộ thụ cảnh lúc ngồi” (61-370).

Thứ năm, thụ cam lộ thủ ấn: “Phần thụ cam lộ thủ ấn, giống như phần giảng dạy lúc nhận quán đỉnh thứ ba” (61-370).

Trên đây là các loại cam lộ có thể sinh (hoặc) không (thể) sinh thiền định. Lại còn có loại cam lộ đắc lợi năng sinh. Cái gọi là “cam lộ đắc lợi năng sinh” là chỉ loại cam lộ có thể sinh ra “thiền định Phật giáo Mật tông” để đạt đến “thành Phật đại lợi”, tức là chỉ cam lộ dâm dịch và cảnh giới thụ của nó có được khi tu Song thân pháp: “Lại nữa, trong Bản tụng có nói câu ‘ngũ tịnh phần chi lạc’, nó là loại cam lộ có thể sinh đắc lợi. Nếu muốn sinh ra tất cả các loại lạc, có thể lan tỏa khắp mọi nơi trong cơ thể, hoặc muốn lạc lan khắp mọi nơi hiện hữu, thì (nhằm lúc song thân hợp tu đạt cực khoái tình dục) phải dừng nghỉ mọi hô hấp, mệnh dừng và thu vào trong, hai tay Kim Cương quyền giao thoa trước ngực, mắt hơi đảo nhìn lên trên, tập cho quen với sự thay đổi hướng nhìn. Chuyển biến tịnh phần ở năm loại cam lộ đó, thì thân sẽ sinh lạc khắp nơi. Lại nữa, lúc mới đầu có hiện tượng lông mao dựng đứng, chỉ sinh được một chút lạc khoái, sau đó lạc khoái bùng lên như lửa lớn, sau đó lay động đi ngược lên trên, sau đó lan tỏa khắp các mạch toàn thân, cho đến khi Không Lạc song vận, đạt mức độ kiên cố (giữ lâu thuần thục) thì không gì không sinh ra, chắc chắn không có sai sót” (61-370~371).

Lại còn có loại cam lộ có thể sinh thiền định, lìa mọi họa hoạn: “Bản tụng còn nói rằng: ‘thụ cam lộ bằng việc không lìa bỏ giác thụ ngũ căn’, tức nói có thể lìa xa sai lầm, lạc sinh đến chỗ nào thì Thức liền chuyển chú đến chỗ đó. Lại nữa, yếu quyết dùng ngôn ngữ dẫn đạo tịch phẫn là chỉ được dùng ba lần, thì sẽ đạt đến bất cứ thứ đau nào và chỗ không sinh lạc hoặc căn môn. Lạc đó sinh ở căn và thiền định, cũng có thể lìa xa mọi họa hoạn” (61-371).

Nghĩa là vào lúc Lạc Không song vận, Lạc Không bất nhị, chuyên chú vào lạc thụ (cảm nhận cái sự sung sướng), lìa xa tất cả mọi tham trước, đồng thời sử dụng “yếu quyết ngôn ngữ dẫn đạo tịch phẫn (chi tiết phải dựa vào sự khẩu truyền của thượng sư)” để khiến lạc xúc đó lan tỏa khắp mọi căn môn toàn thân. Chuyên chú vào Lạc Không như thế, trụ vào trong “Tam muội da” đó, “không có bất kỳ tham trước nào”, thì đó chính là loại cam lộ có thể sinh ra thiền định, lìa xa mọi họa hoạn. Đây cũng là một loại trong “thụ cam lộ”.

Lại nữa, việc thụ cam lộ, vì có sự sai biệt trong tu chứng “giới (giới là chủng tử, tức là tinh dịch) cam lộ đạo dẫn đạo” của hành giả, cho nên có ba loại khác nhau, gọi là giác thụ cam lộ đẳng quân, giác thụ cam lộ lực tăng và giác thụ Minh điểm quảng tăng: “Về giác thụ cam lộ đẳng quân, tụng rằng: câu ‘ngũ cam lộ và ngũ Như Lai thân đẳng’ nghĩa là dùng ngũ cam lộ đẳng quân để tự gia trì, sau khi hành “nội duyên khởi”, giác thụ nương vào (để sinh ra) bên ngoài nó có ba loại: thượng phẩm đẳng quân là ngũ Như Lai, trung phẩm đẳng quân là Phật tử, Bồ Tát…, hạ phẩm đẳng quân là ngũ sắc quang…, tùy theo đó mà sinh. Về giác thụ cam lộ lực tăng, tụng rằng ‘hy lạp và thái dương’, ý nói cái thù thắng của nó ở chỗ là huyết phần nơi Mật xứ lấy từ Mẫu, dùng sức vận hành huyết mạch bên phải để gia trì cho nó, sau khi “lực tăng – vận sức” thì được tự tại như các cam lộ khác…Lại tụng câu rằng ‘kháp bố và thái âm’, ý nói bạch Bồ Đề nơi My gian (giữa lông mày) lấy bên Phụ, dùng sức tinh mạch trái để nhiếp trì và trụ vào đó, sau khi “lực tăng” thì được tự tại như tất cả các cam lộ khác” (61-478, 479).

Về giác thụ cam lộ Minh điểm quảng tăng thì thế này: “tụng rằng: ‘ở chỗ mạch vi tế, chia nhỏ Minh điểm và tinh diệu’, ý là tán phát Minh điểm vi tế cho tăng rộng khắp ở trong 72.000 vi mạch…Trong khi giải thích đạo xuất thế gian chỗ đó, thì phải hiểu rõ cam lộ đạo dẫn đạo ở đạo xuất thế gian”. (61-470~480).

Ba loại đó gọi chung là “Giới cam lộ đạo dẫn đạo”. Nội dung nói trong đó có quá nhiều tà tri, tà kiến, học giả Phật môn đã đọc nhiều giải thích ở trên, tự nhiên sẽ hiểu rõ, nên ở đây không cần giải thích thêm nữa.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31454


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg