The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 8: Những người tu luyện Chuyết hỏa định của Mật tông buộc phải ăn thịt

 

Tiết 8: Những người tu luyện Chuyết hỏa định của Mật tông buộc phải ăn thịt

Có hai nhân duyên mà hành giả Mật tông ăn thịt: Đó là cầu nhanh chóng thành tựu Chuyết hỏa định, và để cường tinh bất xuất, cho nên phải ăn thịt để tăng cường thể lực. Như thượng sư Trần Kiện Dân nói:

“Để tu luyện khí công Chuyết hỏa, hồng bạch Bồ Đề, cho nên cần phải ăn thịt. Liệu pháp ẩm thực của Mật tông Phật giáo (chú thích gốc: Kim Cương thừa) được các Du Già sĩ sử dụng phổ biến để tu học Vô thượng Du Già (Yoga). Đó là do họ từng hoàn thành sự truyền dạy giai đoạn thứ nhất và thứ hai – tức quán đỉnh cấp 1, 2, vì họ có thể y pháp tu như Bản tôn, lại đạt được sự tu luyện khí công, có thể dùng để kiểm soát hô hấp của mình, ít nhất có thể duy trì được hai phút, đồng thời vì như cầu sức khỏe, đang tiến hành thực nghiệm – biến mình trở thành một Đồ Cát Ni ăn thịt. Cả hai tín đồ du già và tín đồ Đồ Cát Ni ăn thịt đều phải hấp thụ hoóc-môn động vật để tăng cường một loại công phu Chuyết hỏa. Do họ bắt buộc phải có loại công phu này, mới có thể dùng để bảo vệ hồng Bồ Đề và bạch Bồ Đề trong cơ thể họ không bị thay đổi, cho nên họ đều có thể ăn thịt động vật”. (32-1077)

Thông thường, người học Phật trong pháp Đại thừa thông cảm cho việc hành giả Mật tông ăn thịt, đa phần là vì cao nguyên Tây Tạng rét buốt, chỉ mọc cỏ dại, không thể trồng được ngũ cốc, rau, quả…cho nên chỉ có thể ăn được thịt động vật ăn cỏ mà thôi, vì thế mà thông cảm cho họ. Thế nhưng, việc có những người ăn thịt trong số những người học Mật tông, thực chất có hai nguyên nhân quan trọng đằng sau nó: Một là để tu Chuyết hỏa định và song thân tu pháp, bắt buộc phải tăng cường năng lực tình dục. Hai là sau khi chứng đắc, để duy trì Minh điểm hồng bạch mà họ đã chứng không để cho nó mất đi, nên phải ăn thịt. Vì thế mà khi Đạt Lai Lạt Ma đến Đài Loan đậm chất ăn chay, vẫn không thể lìa được thói quen ăn thịt nên tiếp tục ăn thật lực thịt bò.

Đó tất cả đều là vì tu hành Chuyết hỏa định, phải cần đến một lượng lớn protein động vật. Nam hành giả cần một lượng lớn protein động vật để tăng cường khả năng tình dục của anh ta – củng cố cửa tinh. Để tránh vì xuất tinh sớm mà không thể trụ lâu trong cơn cực khoái tình dục, tránh mất đi cơ hội thể nghiệm cảnh giới “Không Lạc bất nhị”, cho nên buộc phải hấp thụ protein động vật, vì thế bắt buộc phải ăn thịt. Chính vì lẽ đó mà các hành giả tu luyện lâu năm thành kính tinh tấn của Mật tông đều không từ bỏ việc ăn thịt. Mà đó là do tà kiến gây ra, trái ngược với lời giáo huấn của Phật trong “kinh Lăng Già” và “kinh Lăng Nghiêm”.

Lại có lời nói rằng: “Người tu chuyết hỏa, đa phần đều ăn thứ tựa như thịt chuột vàng (chú thích gốc: nói không có tên rõ), ăn mật bò lớn (chú thích gốc: Thầy (Phật sống Nặc Na) nói: Thịt con bò này nặng đến ngàn cân (cân Tàu), tim to như cái đấu, là chỉ con bò rừng ở Hàn Sơn), hoặc mật bò đực thường, á đại hoàng, sau khi rửa sạch thân thể thì bôi nó, lau bằng vải trắng tinh, để cho bóng lên. Lại dùng thêm mỡ ngỗng vàng bôi vào lòng bàn chân, để không bị khập khiễng” (34-532)

Để cầu tu Chuyết hỏa định và song thân pháp được thành công thuận lợi, cho nên họ phải ăn thịt. Thậm chí để đảm bảo pháp tu thành công, còn yêu cầu ăn thịt những động vật quý hiếm độc lạ, như tìm thịt chuột vàng, hay dùng mật bò lớn núi Hàn Sơn, mỡ ngỗng vàng…nhằm đáp ứng nhu cầu tu luyện. Thế nhưng những pháp tu đao to búa lớn đo quả thực chẳng liên quan gì đến Phật pháp, chỉ là vọng tưởng của đám ngoại đạo mà thôi. Chỉ vì mục đích tu luyện mà tàn hại chúng sinh, ăn thịt chúng, móc mật chúng, tạo thành ác nghiệp, chẳng phải là quá ngu xuẩn hay sao?

Chính vì tu Mật pháp, cho nên họ chẳng khác gì kẻ thế tục cầu tìm những vật nhằm tráng dương: “Giả sử anh không phải là một tín đồ yoga như Đế Lạc Ba, vậy thì tốt nhất anh không nên ăn cá tươi sống, anh có thể đến chợ cá của người Trung Quốc mua cá khô. Thời gian cất trữ không nên quá lâu, chất lượng thịt vẫn cần phải đảm bảo độ tươi để đun nấu. Bởi vì loại cá này có chứa hàm lượng gốc axit trong Thiên môn đông, nó có thể thanh trừ sự suy thoái cấp tốc và lượng protein mỡ trong tinh hoàn, tăng cường tính năng tình dục. Hình dạng của Hà thủ ô cũng tựa như dương vật, màu đen, trong Trung y học, màu đen có thể tăng cường công năng của tinh hoàn và thận. Hình dạng của cà rốt thì tựa như dương vật chó, màu nó như màu máu, có thể tăng cường khả năng tình dục và tạo máu. Vào ngày mùng 1, 2, 3 dương lịch chính là lúc có thể vận hành Mật luân (cơ quan sinh dục), ăn thứ canh này, nhưng không được ăn vào bữa tối. Nếu như vợ chồng muốn quan hệ tình dục, tốt nhất vào giờ Tý (11-01h), hoặc muộn hơn, nhưng quyết không được vào trước giờ Tý” (32-1085)

Nếu là người nữ tu song thân pháp, thì có quy định về ăn uống khác: “Chỉ cần tư cách tương đương, đồng thời tuân thủ giới luật giống nhau, thì liệu pháp ẩm thực tương tự cũng thích hợp với hành giả nữ. Đem đổi thuốc này thành cẩu kỷ là được. Hình dạng và màu sắc của cẩu kỷ đều rất giống âm môi (mép âm hộ) phụ nữ. Người nữ ăn vào sẽ có bổ ích rất lớn đối với thân tâm… Đối với nữ hành giả, con hàu phơi khô cũng có hiệu quả tương tự. Đem vỏ hàu bóc đi, hình dạng của nó, mỗi bộ phần đều giống với cơ quan sinh dục nữ, vỏ ngoài cũng giống môi âm hộ lớn nhỏ, bên trong thì giống âm vật; ngoài miệng như âm hộ, âm mao cũng rất đầy đủ rõ rệt. Còn hàu có nét giống với cơ quan sinh dục nữ này đều có ích đối với thân tâm họ” (32-1086~1087).

Như vậy, lý luận “tu hành” và pháp môn thực tu của Mật tông đều là cầu “chứng quả” và “trí tuệ” trên quan hệ dâm dục nam nữ, nên việc ăn uống cùng các quan niệm và hành vi của họ, đâu đâu cũng không lìa chuyện hai giới nam nữ, điều đó cũng không có gì là lạ. Tông phái tu hành sai lệch, hoang đường đó sao có thể gọi là Phật giáo mà lẫn lộn vào trong Phật môn được? Tất cả các vị trưởng lão đại đức và những người học Phật của Hiển giáo cần phải có cái nhìn đúng đắn vào chuyện này, không thể tránh né hoặc ủng hộ, giúp đỡ họ nữa, để tránh cho Phật giáo bị ngoại đạo này thẩm thấu vào mà thành “đoạt hồn cướp xác”, nếu không “Phật giáo thực sự” sẽ “bị diệt nay mai” mất!

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31450


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg