The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 10: Pháp quán tưởng Minh điểm Trung mạch của Mật tông là pháp tu Tinh Hành Tiên

 Tiết 10: Pháp quán tưởng Minh điểm Trung mạch của Mật tông là pháp tu Tinh Hành Tiên

Báo thân của Mật tông đều là thứ dựa vào những bước chuẩn bị (bày đặt) trước, sau đó quán tưởng mà thành, thuần túy là sự tưởng tượng, không phải là hình tượng Báo thân Phật thực sự trong Pháp giới Sắc cứu cánh thiên. Bởi vì pháp có được dựa vào quán tưởng, không phải là pháp chân thực trong thế giới hiện thực.

Lại nữa, Báo thân Phật mà Mật tông nói là thứ thân dựa vào quán tưởng có thể trở thành pháp chân thực trong thế giới hiện thực để rồi hiện tiền cũng không phải là Báo thân Phật trong Phật giáo. Ví dụ: Báo thân Phật của Mật tông đa phần là tượng song thân nam nữ giao hợp hành dâm đầu đội mũ ngũ phương Phật, hoặc là hình tượng “Phổ Hiền Vương Như Lai” khỏa thân ôm gái hành dâm. Tất cả đều là “Báo thân Phật” dựa trên pháp tu song thân dâm dục được xây dựng nên bởi sự hư vọng của Mật tông, cộng với những hành vi nhân tạo mà thành – gọi quả báo có thể hưởng thụ sự cực lạc của dâm dục là Báo thân Phật. Họ lấy đó để hạ thấp Phật Thích Ca Mâu Ni của Hiển giáo không được hưởng thụ mãi mãi quả báo dâm lạc chí cao này, cho nên không gọi (Phật Thích Ca) là Báo thân Phật mà chỉ gọi là Hóa thân Phật. Vì thế, họ nói: “Phật Thích Ca Mâu Ni khi xưa chỉ là ví dụ về Hóa thân (Phật). Bởi Báo thân trang nghiêm là khi thụ pháp đầu phải đội mũ ngũ phương Phật, thân phải mặc áo Bồ Tát. Còn Pháp thân là Quang thể, không phải là thứ mà mắt thịt có thể nhìn thấy được” (62-273-2).

Với thứ pháp tưởng tượng hư vọng như thế mà nói rằng Phật của Mật giáo đều là Báo thân Phật, còn siêu việt hơn cả Phật Thích Ca của Hiển giáo, hạ thấp sự tu chứng chân thực của Hiển giáo chỉ là sự tu hành Nhân địa, tự rêu rao rằng thứ lý luận và hành môn ngoại đạo tà lệch đó của Mật tông mới là sự tu hành Quả địa, có thể tức thân thành “Phật”, kết quả lại hoàn toàn là ngoại đạo pháp, hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp cả.

Về pháp quán tưởng Minh thể, trong Mật tông cũng nói rằng nó là Đại thủ ấn pháp. Từ sự quán hành Minh thể có thể quán tưởng – Minh Không song vận, gọi là Đại thủ ấn. Cũng là vì ngộ nhân tâm khí Minh thể là pháp Vô sinh, cho nên mới nói Minh thể là Bản thể Đại thủ ấn bất sinh bất diệt: “Cái tâm khí vô sinh không hai, rõ ràng đã thể hiện ‘vô sinh’ rồi. Vô sinh tức là Bản thể Đại thủ ấn. Khí bất diệt tức là diệu dụng của Đại thủ ấn. Lúc trước khi gia hành, đặc biệt vì lập tên quả vị, nay thực hiện quả đức tâm khí vô sinh bất nhị, cho nên có thể nhiếp thụ nó. Đẹp thay!” (34-845). Minh thể đắc nhờ quán tưởng như thế, gọi đó là pháp Vô sinh, thế nhưng họ lại không biết rằng Minh thể là pháp nhờ giả duyên mà có. Họ cuồng vọng cho rằng phải hành pháp Vô sinh này, coi đó là pháp Thực tướng vốn có của tất cả chúng sinh, nhầm lẫn cực lớn!

Vì sao vậy? Vì Minh thể là vật chất, dựa nhờ vào Sắc thân và Địa Thủy Hỏa Phong Không, cùng với bảy tâm thức, bên ngoài thêm vào Thọ Tưởng Hành Thức, sau khi thực hiện “tu hành” quán tưởng bằng Tâm ý thức, mới do Tâm thức thứ tám hiển hiện hình tượng Minh thể. Trước khi quán hành thì nó vốn không tồn tại, sau khi quán hành (tu tập) thành công, nếu khi không quán hành thì nó cũng tạm thời diệt vong không hiện khởi. Trong ngũ vị gồm lúc ngủ say, lúc ngất xỉu, lúc nhập Vô tưởng định, lúc nhập Diệt tận đinh và trong giai đoạn chính tử (chết thực sự), tất cả (hình tượng đó) đều đoạn diệt, không hiện khởi. Pháp Minh thể như thế, không phải là pháp đều luôn tồn tại bất diệt trong tất cả mọi thời khắc, không phải là Thức thứ tám Như Lai Tạng mà chúng tôi chứng được, nó luôn luôn hiện hành bất cứ lúc nào và người chứng ngộ bất cứ lúc nào cũng có thể nhìn thấy: không cần phải nhờ tu quán tưởng rồi sau mới xuất hiện, cũng không từng tạm ngừng không tồn tại. Cho nên, tất cả những người chứng ngộ có thể nhìn thấy sự hiện hành không ngừng nghỉ của Thức thứ tám của tất cả những người chưa chứng ngộ, không vì những phàm phu chưa ngộ đó không tu mà không thể nhìn thấy. Thế nhưng, Minh thể chỉ là pháp hữu sinh hữu diệt, buộc phải tu pháp quán tưởng thì sau đó mới xuất hiện, đó là pháp hữu sinh, làm sao có thể nói đó là pháp vô sinh vô diệt đây? Không thể có thứ lý này được!

Minh thể mà Mật tông chuyên tâm tu luyện đó là do tu hành mà có, chỉ là pháp luyện tinh luyện khí của thế tục. Những người tu hành như thế, gọi là ngoại đạo. Trong cuốn kinh Lăng Nghiêm quyển 8, Phật từng nói: “Kiên cố động nghỉ mà không ngừng nghỉ, khí tinh viên thành, gọi là Không Hành Tiên... Kiên cố tinh sắc mà không ngừng nghỉ, hấp túy viên thành, gọi là Thông Hành Tiên”, không phải là pháp Tam ma địa chính tu trong Phật pháp. Tứ Yoga mà Mật tông nói gồm Chuyên nhất, Ly hí, Nhất vị, Vô tu đều là dựa vào Minh thể mà dụng tâm trên phương diện ý thức, không liên quan gì đến Yoga thực sự trong Phật pháp. Vì vấn đề giới hạn chương tiết, nên pháp tu luyện Minh thể trong cuốn sách này chỉ lược thuyết sơ qua, không tường thuật chi tiết.

 

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31442


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg