The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 9: Đạo tam thân thành Phật

 Tiết 9: Đạo tam thân thành Phật

 

Mục 1: Đạo Pháp thân thành Phật

Có ông thầy nói rằng: “Phần lớn những người chưa từng tu qua thì Trung âm thân của họ có ba kiểu là Sinh-Tử-Trung, còn với những người thường tu Yoga thì khác. Việc đầu tiên, tức tu ba loại Sinh-Tử-Trung (âm thân) này, muốn nó trở thành “Tử-Trung-Sinh”, đem Tử đặt lên hàng đầu, tiếp đến là Trung, sau cùng là Sinh. Để khiến cho Trung âm thân biến hóa thành hóa thân của Phật, thân khẩu ý của mình biến thành tam thân của Phật, cho nên người tu pháp buộc phải ngày ngày thực hành “quán tưởng ta chết, ta chết rồi, tâm quang này”, phải luyện sao cho hễ vừa tưởng là thành, sau này mới biến thành Phật được. Đây chính là đạo Trung âm thân thành Phật. Khi tu pháp, hành giả tự quán tưởng mình là Phật, phải thực hành quán tưởng thật sự, không được khởi niệm nghi ngờ, đồng thời phải rõ ràng như là đang nhìn thấy. Việc tu tập lúc này chính là cái Nhân thành Phật sau này. Tương lai Trung âm thân thành Phật, tức là cái Quả tu tập lúc này đây. Đắc pháp thuật này là Báo thân thành Phật. Nếu như người nào tu đại uy đức, sau này sẽ biến hóa ra đại uy đức 9 mặt 32 cánh tay, đó là Hóa thân thành Phật. Thứ ba đều là sự nối liền như vậy, cho nên tam thân của Sinh-Tử-Trung tức là tam thân Pháp-Báo-Hóa thân. Đó là đạo thành Phật, cực kỳ quan trọng” (62-264, 265)

Đạo thành Phật tuyệt đối không phải chỉ dùng pháp quán tưởng là có thể thành tựu. Cái mà do quán tưởng mà thành chỉ là Nội tướng phần thôi, hoàn toàn không liên quan gì đến đạo thành Phật cả. Người nào muốn tu đạo thành Phật, thì bắt buộc phải chứng được đạo Phật Bồ Đề và đạo Giải thoát. Người chứng đạo Giải thoát, cốt ở việc đoạn trừ các phiền não Ngã kiến và Ngã chấp, không phải là bắt nguồn từ pháp quán tưởng thành Phật mà đạt thành tựu. Người chứng đạo Phật Bồ Đề, cốt là ở việc chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng, nhờ đó mà sinh ra Tổng tướng trí Bát Nhã. Tiếp theo đó, từ Tổng tướng trí của Bát Nhã mà tiến tu Tổng biệt trí Bát Nhã. Sau khi thông đạt Biệt tướng trí của Bát Nhã thì mới có thể dựa vào đó mà tiến tu Nhất thiết chủng trí. Trước khi tu viên mãn đầy đủ Nhất thiết chủng trí thì gọi là Đạo chủng trí, tức là trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát địa thượng (Thập địa các cấp). Nếu như viên mãn đầy đủ được Nhất thiết chủng trí của Bát Nhã thì mới gọi là tu thành Cứu cánh Phật đạo.

Tu đắc tam thân đầy đủ viên mãn như thế, với các nội hàm thứ tự tu hành như thế mới thực sự là đạo thành Phật, tuyệt đối không phải như đạo quán tưởng thành Phật theo thuyết của Mật tông. Với cái pháp quán tưởng thành Phật như thế, hành giả giả như sau khi thực sự tu tập ba đại vô lượng kiếp (ba đại a tăng kỳ kiếp), vẫn không thể đoạn trừ được Ngã kiến, vẫn ngộ nhận coi Tâm ý thức là Tâm chân thực bất hoại, vẫn chỉ là vọng tưởng phàm phu, vẫn còn chưa thể đạt được quả vị Sơ quả của Thanh văn, nói gì đến việc chứng được quả Bồ Đề Đại thừa? Tu hành như thế, cùng kiếp cũng không thể tương ứng với Phật đạo. Hành giả Mật tông bị dẫn dắt sai lầm như thế, dù có tu hành chăm chỉ cần cù đến mấy cũng tốn công vô ích, quả thật là những kẻ đáng thương.

Ông thầy này lại nói: “Cái quang minh (ánh sáng) khi chết, đầu tiên nhìn thấy ánh sáng đỏ lóe sáng như ánh chớp, sau đó thì hỏa Đan Điền cháy lên (Chú thích gốc: lửa Đan Điền là nội hỏa, độ nóng ấm, là lực của Đan Điền hỏa), sức nóng lên cao, thế là trên đỉnh đầu nhìn thấy một Nguyệt luân (Chú thích gốc: Tiếng Tạng gọi cái Nguyệt luân này là Tiểu thố - thỏ con. Những loại mật ngữ như thế này có rất nhiều trong kinh bí mật của Tây Tạng, nếu như không có khẩu truyền của Thượng sư thì vô cùng khó hiểu. Ở đây cái gọi là Nguyệt luân đó chính là một tên gọi khác của Tinh điểm), lực của Đan Điền hỏa khi dùng đến thì tu “Không An không hai không khác”. Nếu biết Không An không có hai không có khác biệt tức là đã đến lúc ôm Minh Phi rồi đấy (Ý là đến lúc có thể tu chứng song thân pháp bằng quán tưởng rồi). Cái gọi là “ôm Minh Phi” tức là đạo âm dương giao hợp đó. Ôm Minh Phi có thể sinh an lạc, đồng thời nhìn thấy “tất cả các pháp đều Không”, khiến cho Không An bất phân, như thế gọi là “Không An không hai không khác”. Khi ôm Minh Phi, không phải là ôm một Minh Phi trên thực tế, mà là trong lòng tưởng tượng ôm một Minh Phi vậy. Đó là Minh mẫu ảo (Ghi chú: Ôm Minh Phi có nghĩa là Không An. “An” là chỉ Tâm mình, còn “Không” là chỉ Minh mẫu. Hai thứ này hợp lại với nhau, thì gọi là Không An không hai không khác. Hai thứ Không và An mãi mãi không lìa nhau. Chi tiết xem thêm tại 62-273), nếu không khi người chết thật, lấy đâu ra Minh mẫu thật mà ôm đây? Chẳng qua là làm cái quán tưởng này mà thôi. Khi đó, trong lòng tưởng ra “nhất thiết pháp không”, tức tự mình đắc Pháp thân vậy” (62-270, 271).

Những lời nói ở đoạn này chính là đạo “Trung âm thân thành Phật” của Mật tông. Mật tông dựa vào thứ vọng tưởng này để tự nói rằng có thể thành tựu Pháp thân trong một đời, nói rằng khi chết là có thể chứng được Pháp thân mà thành Cứu cánh Phật, đúng là những ngôn thuyết vọng tưởng, xằng bậy. Pháp thân ở đây tức là Thức thứ tám Như Lai Tạng, mà Mật tông tu pháp như vậy, tuyệt đối không bao giờ có thể chứng được Thức thứ tám, thì làm gì có chuyện chứng được Pháp thân đây?

Lại nói: “Nay tu cái thứ ánh sáng lúc chết, bắt buộc phải quán sát cho thật kỹ thì mới nhận biết được nó. Ngày thường, thời thời khắc khắc phải tu, phải tưởng tượng rằng mình chết đi, tứ đại lần lượt hòa nhập (rệu rạo tan rã), là lúc Không đến. Khi nhìn thấy bạch diệu Không đến, khi thì nhìn thấy hồng đại Không đến, khi thì nhìn thấy hắc nhất thiết Không đến, khi dâng lên trên, mệnh tức thì xuất ra, thế là minh quang hiển hiện, là chứng đắc Pháp thân...” (62-294, 295).

Ở đây là sự ngộ nhân Tâm minh quang là Pháp thân đó thôi. Tuy nhiên, Tâm minh quang vẫn chỉ là cảnh giới do Ý thức tạo nên, không liên quan gì đến Pháp thân. Pháp thân trong tất cả các kinh Đại thừa đều nói đó là Thức thứ tám. Còn Pháp thân minh quang mà các sư thầy từ cổ chí kim của Mật tông nói đến đều là pháp cảnh giới nơi mà Ý thức trụ vào, không liên quan gì đến Phật pháp cả. Về các đạo Pháp thân thành Phật khác của Mật tông, chi tiết xem thêm tại Tiết 4 của Chương này, và có nói riêng trong Chương 8, 9. Vì chương tiết có hạn, nên chỗ này chỉ tạm nêu qua.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31438


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg