The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 4: Lược thuyết về pháp quán tưởng

 Tiết 4: Lược thuyết về pháp quán tưởng

Pháp quán tưởng sau khi được truyền vào Mật tông, vì sự thay đổi của thời đại mà sinh ra rất nhiều pháp phái sinh, nhưng tất cả đều không ngoài pháp tu Minh điểm (Minh thể) và Trung mạch Bình khí – tất thảy đều phát triển thêm từ trong đó mà ra. Nay xin được lược thuật một vài pháp để làm rõ nội dung chính yếu của pháp quán tưởng này là đủ, không cần thiết phải tường thuật chi tiết từng pháp một, bởi nói mãi cũng không hết được.

“Mỗi người giữa rốn có một Tề hóa luân, giữa tâm có một Pháp luân, giữa hầu có một Báo luân, còn gọi là Thọ dụng luân, đỉnh đầu có một Đại an lạc luân, Mật xứ (hạ thể) có một Hộ lạc luân. Hình dáng của ngũ luân đều khác nhau, phần dưới sẽ nói chi tiết. Giữa Ngũ luân này được nối liền bằng Trung mạch, mạch này là gốc của tâm, khởi chạy từ Ấn đường, chạy lên trên đến đỉnh đầu xuyên qua Đại an lạc luân, rồi chạy xuống giữa hầu, thông qua Báo luân; Tiếp theo xuống dưới đến giữa tâm, thông qua Pháp luân; Lại chạy xuống giữa rốn, thông qua Tề hóa luân; Lại chạy xuống dưới đến Mật xứ (cơ quan sinh dục) thông qua Hỗ lạc luân đến đầu chót quy đầu thì dừng lại. Pháp tu của Lạt Ma Mạt Nhi Oát (Mã Nhĩ Ba) có hai loại: Một là pháp tu lúc ngủ, hai là pháp tu lúc tỉnh thức. Khi ngủ thì tu Pháp luân giữa tâm và Báo luân giữa hầu. Khi thức thì tu Tề hóa luân, như ôm Minh mẫu (Minh Phi); lại tu Đại an lạc luân trên đỉnh đầu. Bốn luân của hai pháp tu thức và ngủ này cần tu tập cho tốt, thì thể chất mạnh dần lên, thành tựu Tự dịch. Tu ở đây tức là quán tưởng đó. Pháp tu của Thời luân Kim Cương thì có chút khác biệt so với pháp tu nói ở trên. Tức là khi thức thì tu Đại an lạc luân trên đỉnh đầu và Tề hóa luân giữa rốn, còn khi ngủ thì tu Báo luân ở giữa hầu và tu Hộ lạc luân ở Mật xứ (chỗ kín). Lúc ngủ say không biết gì cả thì tu Pháp luân ở giữa tâm.... Tu Hộ lạc luân ở trên đỉnh Mật chùy (quy đầu). Tinh khí người đàn ông men theo Trung mạch mà lên xuống, do khí ép nó chạy như thế. Khi ngủ thì tu Pháp luân giữa tâm và Hộ lạc luân nơi Mật xứ, tức là đem khí trong Trung mạch tụ ở Pháp luân, sau đó men theo Trung mạch mà chạy xuống Hộ lạc luân ở Mật xứ, khi đó đại lạc ở trong lòng không thể đặt tên trạng thái của nó; Khi cơn đại lạc xoáy tròn đó giảm dần, lại từ Hỗ lạc luân chạy ngược lên đến Báo luân ở giữa hầu, khi đó trong lòng còn chưa rõ ràng, nhưng khi tỉnh thức thì trạng thái đó dần rõ rệt. Khi đó, khí sẽ chia làm hai đường, một đường lên Đại an lạc luân trên đỉnh đầu, một đường chạy xuống Hộ lạc luân ở Mật xứ. Khi đó, tâm bắt đầu hoàn toàn tỉnh thức rõ ràng. Cái Bồ Đề tâm của người nam chính là tinh dịch đó, khi khí đẩy tinh màu trắng này lên đến Đại an lạc luân trên đỉnh đầu men theo Trung mạch xuống Báo luân ở giữa hầu, trong lòng mơ hồ như trong mộng. Khi nó chạy đến Pháp luân giữa tâm, thì cái tâm lợi ích chúng sinh xuất hiện. Khi chạy đến Tề hóa luân giữa rốn thì trong lòng rất sướng, cái tâm bảo vệ mình xuất hiện. Khi chạy đến Hộ lạc luân ở đầu chót Mật xứ (quy đầu), trong lòng sinh cực lạc, nhất định “Nhất thiết không tâm” sẽ xuất hiện. Khi đó, tất cả đều không biết gì nữa. Cái đạo luyện khí này trước hết phải quán tưởng vận khí trong tâm, lấy khí đẩy tinh. Quán tưởng lâu ngày, khí tự nhiên sinh khởi. Khi đã luyện thật nhiều, khí tự thông đạt, đến sau này có thể vận khí tùy ý. Sau khi khí vận thông đạt, Phạm môn bắt đầu mở. Tinh mà không có khí ép đẩy thì không thể tự vận động, khí mà không có tâm làm chủ thì không thể tự vận động. Tinh là thứ chí bảo quý báu nhất của con người, cần phải sử dụng cho khéo, thì sẽ không khó thành Phật. Sau này người nào tu có thể biến thành vô số Hóa thân Phật thì đều là do tác dụng của tinh này đó”. (62-77~79)

Việc định nghĩa tinh khí là Thắng nghĩa Bồ Đề tâm như thế khác xa so với Thức thứ tám là Thắng nghĩa Bồ Đề tâm mà Phật Thế Tôn đã khai thị, vậy thì với cái “Tâm” – tinh khí mà người tu “Bồ Đề Tâm” này chứng được làm sao có thể nói đó là tu chứng Bồ Đề tâm trong Phật pháp được? Mật tông lại nói vô số Hóa thân thành tựu sau này cũng là do tinh khí biến hóa mà thành, khác xa so với Hóa thân do Bát Nhã tuệ chủng trí ở tam tứ ngũ địa và Tăng thượng Thiền định hình thành mà Phật đã khai thị. Cho nên, có thể khẳng định pháp tu lấy tinh khí làm gốc để tu thành vô số hóa thân ở Phật địa trong tương lai của Mật tông đều là vọng thuyết. “Phật pháp” như thế tuyệt đối không thể là Phật pháp trong Phật giáo được.

Hơn nữa, cảnh giới quán tưởng trong thuyết của Mật tông cũng vô cùng hoang đường, họ nói rằng phải làm quán tưởng vào lúc tất cả đều không biết gì nữa. Khi đã không biết gì nữa, tức là lúc Ý thức đã bị rơi vào đoạn diệt rồi. Ý thức đã không còn tồn tại nữa thì còn quán tưởng làm sao được? Bản thân Thượng sư Mật tông cũng còn không biết mình nói gì nữa, phát sinh mâu thuẫn trong pháp quán tưởng này như thế mà họ cũng không biết, làm sao có thể gọi họ là những “người có tu có chứng trong Phật pháp”? Tất cả đều là những kẻ trùm đầu người khác, những gì họ nói đều không thể khiến người ta tin theo được.

Pháp quán tưởng Trung mạch xin lược thuật như sau:

“Trong Trung mạch trống rỗng như ống tre, trong có một Mạch điểm nhỏ bé, to cỡ hạt cây cải. Cái Mạch điểm nhỏ bé này chính là Tâm tính mệnh của mỗi người vậy. Nhưng Tâm này không phải là nhục tâm (quả tim thật), nhục tâm thì to thô, còn Tâm này thì nhỏ. Nhục tâm nằm ở ngoài còn Tâm này nằm bên trong nhục tâm. Khi người chết đi thì nhục tâm vẫn còn lưu trong cơ thể, còn Tâm này thoát ra ngoài. Phần trên có nói rằng: Chữ Hồng đảo đầu trong tâm mạch bên trong Pháp luân tức chính là cái hình của Tâm này, các mạch dài dài khác không phải là cái Tâm này. Chữ Hồng này dịch chuyển thì tức là Tâm này dịch chuyển. Tâm này đi thì người chết liền. Tu cái đạo Trung mạch, ngoài trừ quán tưởng mạch luân kể trên ra, thì phải quán tưởng chữ Hồng này và ba chữ chủng tử Án, Hanh, A của ba luân ở hầu, đình đầu và rốn. Lúc tu, bốn luân đều có pháp tu một chữ riêng, các kinh khác nhắc đến nhiều. Nhưng pháp tu “Đô địa” thì chỉ có cuốn kinh này mới có. Nếu như không biết pháp tu tụ ở Đô địa thì tất cả các khẩu quyết khác đều mất công hiệu, tương lai quyết khó mà thành tựu được. Nếu như biết được pháp này, sau này khi chết đi mới có thể tụ 80 loại phong khí làm thành 25 chủng; 25 chủng này lại tụ thành 3 chủng, 3 chủng lại tụ tiếp thành 1 chủng, như thế mới có thể thành Phật. “Đô địa” này chính là sự “hòa hợp” mà trước đây đã giảng đến, nằm ở trong Trung mạch giữa nhục tâm, hình dạng của nó trong Trung mạch trông giống như cái ụ nổi sau khi con rắn nuốt xong con chuột vậy. Đoạn văn trên có nói đến cái Tâm tính mệnh, tức nằm ở trong sự hòa hợp này, bị cái khí giữ mệnh nó cuốn vào bên trong, vĩnh viễn bất động. Chỉ cần nó động là chết người ngay....Cái tướng tu không thể quan sát nó ở bên ngoài cơ thể, cần quán sát nó ở bên trong cơ thể. Tu tập như vậy lâu dần dà, tự nhiên Điểm chạy theo Tâm, Tâm muốn chạy sang Đông thì Điểm chạy sang Đông, Tâm muốn sang Tây thì Điểm liền sang Tây. Cái “Điểm” ở đây chính là Tinh điểm to cỡ hạt đậu tương đã nói ở trên đó. Tinh này không phải là tinh dịch bình thường, mà là Quang điểm như hỏa diệm, mạng người nằm trong đó. Thuật ngữ trong pháp tu thì gọi nó là Điểm, là Mệnh, là Minh điểm, Tinh điểm. Kỳ thực đều là một thôi... Trước tiên phải tu các mạch để khiến cho tất cả các mạch hòa nhập vào Trung mạch, sau đó Mạch khí điểm lại có thể hội tụ vận hành như ý, thì kể như công phu đã thành, tự có thể vận Điểm chạy khắp các bộ phận trong cơ thể. Người nào có thể làm được như vậy mới gọi là người thành tựu Chính phần. Kẻ nào không làm được như thế mà tự xưng là đã đắc đạo Chính phần (pháp tu song thân) thì tức là lừa dối người vậy. Người thành tựu Chính phần, có người nữ thì chớ hấp tấp, nếu không sẽ tổn thương thân mình. Khi Mạch khí điểm tụ ở Đại an lạc luân (đương khi tu song thân pháp), thì Hoan hỉ Tâm sẽ sinh ra. Sau đó khi vào giữa hầu thọ dụng Luân mạch, thì sinh ra Diệu hoan hỉ Tâm. Khi nhập vào Pháp luân mạch ở giữa tâm thì sinh ra Thù thắng hoan hỉ Tâm. Khi vào đến Tề hóa luân mạch giữa rốn thì sinh ra Hòa hợp hoan hỉ Tâm. Đó chính là Tứ hoan hỉ Tâm đã nhắc đến ở đoạn văn trên. Muốn sinh ra Tứ hoan hỉ Tâm này, buộc phải biết pháp tu Tứ luân chú tự, thường xuyên tu luyện như vậy thì Mạch khí điểm mới có thể tụ ở Đô địa. Sau khi tu thành thì Không Tâm thứ tư sẽ đến, thì có thể phao-oát (thiên thức – dịch chuyển thức) được rồi. Khi phao-oát, thì trước hết phải khiến cho Đan Điền nóng rực, khí men theo Trung mạch thượng thăng đến Đại an lạc luân ở đỉnh đầu, thế là Bạch Bồ Đề Tâm hòa tan mà chạy xuống giữa tâm, hòa hợp với Hồng Bồ Đề tâm. Bạch nhập vào trong Hồng, Hồng nhập vào trong Bạch, Hồng Bạch hội nhập vào Đô địa. Sau khi nhập vào Đô địa thì sẽ có cảm giác hắc ám dị thường. Khi đó tất cả đều không biết gì nữa, tất cả đều không còn tồn tại gì cả, tựa như lúc ngủ say vậy. Việc đạt đến mức độ đó, mỗi người có trình độ nhanh chậm khác nhau. Khi đạt thành tựu cần phải xem hồng quang như máu trước, khi đó là lúc Đô địa hơi mở, nhưng sau khi mở là lập tức đóng lại, vì mở nhiều thì mệnh xuất ra ngoài hết, thì người sẽ chết ngay. Cái “hồng quang như máu” chỉ hiện ra trong một khoảnh khắc sát na, lóe ra là biến mất. Sau hồng quang là nhìn thấy sắc quang vàng trắng, khi đó mệnh đã rời cơ thể xuất ra ngoài. Mệnh mà đã ra ngoài rồi thì biết mình đã chết. Nhưng người mới đạt thành tựu này không biết mình đã chết. Người nào tu tập khá lâu thì mới biết điều đó. Khi đó cần quán tưởng “Ta chết, vô thường, nhất thiết pháp không, không vô sở hữu”, đột nhiên trong không trung hiện ra một chữ chủng tử Bản Tôn, chữ lại biến thành dáng vẻ của Bản Tôn, mình chính là Bản Tôn này, không hai không khác. Thế là, giữa tâm phóng quang phụng thỉnh Trí tuệ Phật Tự tính tịnh xứ dung nhập vào thân của mình. Khi Trí tuệ Phật đến, Phật quang rất sáng, gần như hai mắt không thể nhìn thẳng. Lúc đó trong lòng đừng có sợ hãi, cần làm như con gặp mẹ, sinh lòng hoan nghênh, đừng có trù trừ mà lao ngay thân vào trong ánh sáng đó, hợp nhất với luồng sáng đó. Hợp với ánh sáng, tức là thành Phật rồi” (62-141~146).

Nếu như nói mệnh căn của con người nằm ở trong Minh điểm Trung mạch, thì đó là ngôn từ của kẻ vọng tưởng rồi. Mệnh căn vốn dĩ là danh từ do con người thiết lập ra, gọi là “tâm bất tương ứng hành pháp”. Sinh mệnh của con người liệu có tồn tại hay không, và sự tồn tại đó lâu hay ngừng nghỉ, đều là do bên trong Thức thứ tám của mỗi người quyết định. Nếu như chủng tử uẩn trong Thức thứ tám khiến cho người đó đoản mệnh hay trường thọ, thì phải do chủng tử quả báo nằm trong uẩn ở bên trong Thức thứ tám của người đó hiện hành, khiến cho người đó sống dài hay ngắn, cho nên mệnh là do A Lại Da thức tàng giữ, không phải là do Minh điểm (Minh thể) trong Trung mạch quyết định. Minh điểm có được do quán tưởng của bên Mật tông, lấy đó để mong cầu tu thành Phật, quả thực là cái tưởng hư vọng. Minh điểm do quán tưởng mà thành chính là “Nội tướng phần” do Thức thứ tám hiện hành thôi, nó do quán tưởng mà thành, không phải là thứ vốn dĩ đã có, không hề tồn tại trước khi chưa tu. Đã là pháp có sinh thì tất có diệt, không thể gọi nó là nguồn gốc của sinh mệnh được.

Nếu như Minh điểm là nguồn gốc của sinh mệnh, mà Phật lại nói Thức thứ tám A Lại Da là nguồn gốc của sinh mệnh, như vậy sinh mệnh có những hai nguồn gốc, như thế thì không đúng lý. Trong các kinh Tam thừa, Phật nói về “cái Nhân của sinh mệnh”, tức là cái Thức mà Danh Sắc duyên vào – Thức thứ tám Như Lai Tạng – do đó tất cả những người học Phật đều phải coi những gì Phật nói là chuẩn mực, không thể tự lập riêng một nguồn gốc khác của sinh mệnh ngoài những gì Phật nói. Lại nữa, cái Thức thứ tám A Lại Da Tâm mà Phật thuyết quả thực có thể chứng thực được, cổ kim đều có người đã chứng được (sự tồn tại chân thực của nó), nay ở Hội đồng tu Chính Giác vẫn có nhiều người có thể chứng được, chứng tỏ Phật không nói vọng ngôn. Cho nên, tất cả những người học Phật đều nên tin rằng Thức thứ tám mà Phật tuyên thuyết là nguồn gốc của sinh mệnh, chớ có tin Minh điểm mà các Tổ sư Mật tông tự lập riêng đó là nguồn gốc của sinh mệnh.

Các kinh điển cơ bản của Mật tông đều nhiều lần nói rằng Bản thân mà do mình quán tưởng thành tức là Bản Tế ở Tất địa Phật, ví dụ: “Bí Mật Chủ hỏi rằng: ‘Thưa Thế Tôn! Nguyện nói sắc tượng chư tôn uy nghiệm hiện tiền, khiến cho các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh ở Chân Ngôn môn, vì quán duyên hình dáng Bản tôn, tức thân Bản tôn cho là Tự thân, không có nghi hoặc mà đắc Tất địa’”. “Phật” trong “Đại Nhật kinh” khai thị thế này: “...Này Bí Mật Chủ! Chư tôn có ba loại thân, đó là Tự, Ấn, Hình tượng. Tự (chữ) đó có hai loại, gọi là Thanh và Bồ Đề tâm; Ấn có hai loại, gọi là hữu hình và vô hình; Thân của Bản tôn cũng có hai loại, gồm thanh tịnh và phi thanh tịnh. Ngươi chứng thân thanh tịnh ly rời tất cả các tướng, còn cái thân phi thanh tịnh hữu tưởng thì hiển hiện ra các sắc màu khác nhau. Hai loại tôn hình đó thành tựu hai loại việc, hữu tưởng thì thành tựu Tất địa hữu tướng, vô tưởng thì tùy sinh ở Tất địa vô tướng”. Lại nói kệ rằng: “Vì Phật thuyết hữu tưởng, lạc dục thành hữu tướng. Vì trụ vào vô tưởng, đắc Tất địa vô tướng. Vì thế tất thảy chủng, nên trụ ở phi tưởng” (Quyển 6).

Những lời “Phật” nói đó, nghĩa là chỉ Bản tôn do quán tưởng mà thành tức là Tự thân mình, thật đúng là vọng tưởng. Hình ảnh của Bản tôn do quán tưởng đó chỉ là “Nội tướng phần” do chính mình quán tưởng thành mà thôi. Mà Tướng phần do quán tưởng mà thành chỉ là pháp duyên sinh, pháp duyên sinh làm sao có thể coi là Thực tế của chính mình được?

Lại nữa, ba thứ Tự, Ấn, Hình tượng tuy mỗi thứ có hai pháp giải thích, nhưng đều chưa lìa khỏi bản chất của duyên sinh. Tuy có nói rằng Tâm giác tri khi vô tưởng (không suy nghĩ) tức là Tất địa, nhưng vô tưởng chỉ là sự bất động của Tâm giác tri trong Dục giới mà thôi – nghĩa là không hiện khởi bất cứ suy tưởng nào, chưa thể chứng được Vị đáo địa định, nói gì đến việc có thể biết, có thể chứng Bát Nhã? Nếu vô tưởng chính là Tất địa Thực tướng vô tưởng mà Mật tông chứng được, thì tất cả những người chứng đắc Dục giới định đều đã trở thành Phật của Mật tông rồi.

“Phật” trong “Đại Nhật kinh” của Mật giáo lại nói: “Kẻ ngu và phàm phu chia cái hình tượng Tự tính không (của Tưởng) từ Ta ra, sinh điên đảo bất thực, khởi các niệm phân biệt: hoặc để cúng dường hoặc làm hủy hại. Này Bí Mật Chủ! Tâm không có tự tính, lìa tất cả các loại tưởng, cần nên tư duy Tính không. Này Bí Mật Chủ! Tâm không thể cầu được trong tam thời, vì nó qua cả ba đời, Tự tính như thế rời xa tất cả các tướng. Này Bí Mật Chủ! Người có tâm tưởng tức là sự phân biệt của kẻ ngu và phàm phu. Do không hiểu biết, có những tính toán hư vọng như vậy. Như cái đó không thực không sinh, cần tư niệm như thế. Này Bí Mật Chủ! Chư Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh của Chân Ngôn môn này chứng được vô tướng tam muội, do trụ vào vô tướng tam muội, chân ngữ mà Như Lai thuyết gần gũi nhằm vào người đó, thường hiện tại tiền” (Quyển 6).

Như vậy, từ việc nhằm vào cái “tưởng” mà Bản tôn quán tưởng là không có hình tượng, và nhằm vào “Bản tôn” do quán tưởng thành là Không, không có vật chất nhục thân, quán tu “thân niệm” và “quan sát Tính không” như thế, tức là đã chứng được vô tướng tam muội. Cái Thực tướng vô tướng mà “Phật” của Mật tông nói đó khác xa so với việc lấy Thức thứ tám “Vô tâm tướng tâm, bất niệm tâm, phi tâm tâm” của “Bát Nhã kinh” làm Pháp thân Thực tướng mà Phật nói trong các kinh của Hiển giáo, hoàn toàn không phải là Phật pháp. Thế mà các hành giả Mật tông lại lấy “Tâm ý thức nhất niệm bất sinh không có ngôn ngữ, vọng tưởng” coi là chứng được Tất địa, gọi thế là thành Phật, lấy việc tu chứng đó để hạ thấp những người chân tu thực chứng của Hiển giáo là tu hành Nhân địa, từ đó tự nâng cao mình lên thành tu hành Quả địa “Cứu cánh Phật quả”, điên đảo đến như mức độ đó.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31433


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg