The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 2: Minh điểm, Mạch khí, Vô thượng Yoga là gốc rễ của pháp tu Mật tông

 Tiết 2: Minh điểm, Mạch khí, Vô thượng Yoga là gốc rễ của pháp tu Mật tông

 

Mục 1: Minh điểm, Mạch khí, Vô thượng Yoga – Ba pháp này là căn bản của pháp tu Mật tông

Minh điểm và khí công là nền tảng của pháp tức thân thành Phật của Mật tông – pháp tu Vô thượng Yoga song thân. Sau khi hoàn thành việc tu chứng Minh điểm và Mạch khí thì có thể tu tập Vô thượng Yoga. Từ việc tu tập Vô thượng Yoga song thân tu pháp thì có thể chứng đắc “Phật quả”. Cho nên mới nói Minh điểm, Mạch khí, Vô thượng Yoga là căn bản của pháp môn tu hành Mật tông. Nói cách khác, Mật tông lấy pháp môn tức thân thành Phật Vô thượng Yoga làm tư tưởng chủ yếu. Còn về pháp tu khí công, nếu độc giả có hứng thú thì có thể đọc thêm cuốn sách thứ 62 “Khí công Mật tông Tạng truyền” trong phần phụ lục, cuốn sách này không thuật lại nữa.

Tổ sư Mật tông sau khi sai lầm cho rằng luyện thành khí công Minh điểm thì có thể thành tựu Tứ thiền Bát định trong thế gian quả, vãng sinh lên Dục giới thiên cho đến Sắc giới và Vô sắc giới thiên. Như trong cuốn “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” nói: Tu học khí đạo dẫn đạo, giới Cam lộ đạo dẫn đạo, Mạch tự đạo dẫn đạo, là có thể chứng được Tứ thiền Bát định, đồng thời có thể “hòa nhập vào cung điện của Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật mẫu..., cảm nhận được pháp thân, lại giải được hai thứ chấp”, tức là chứng đắc pháp thân và giải trừ được nhân ngã chấp và pháp ngã chấp. (Chi tiết xem 61-371, 487, 492, 493)

Các tổ sư Mật tông lại xằng bậy cho rằng có thể dựa vào khí công Minh điểm và sự thành tựu quán tưởng chữ Mạch là có thể lìa xa được tam ác đạo, thành tựu xuất thế gian quả, trở thành “Bồ Tát bất điên đảo” (61-478~491). Lại xằng bậy cho rằng việc tu thành khí công Minh điểm có thể thành tựu Bát Nhã Ba La Mật mà lìa xa Năng đoạn và Sở đoạn (61-494, 495). Nói láo rằng dựa vào mạch luân trong cơ thể có thể thành tựu bốn loại Tịnh Độ (61-552, 553).

Họ cũng sai lầm cho rằng Minh điểm đạt được bằng quán tưởng chính là Bồ Đề tâm. Ví dụ như cuốn “Thắng tập Mật giáo vương ngũ thứ đệ giáo thụ thiện hiển cự luận” do Tông Khách Ba viết nói rằng: “Thô tế sinh khởi theo thứ tự đến cứu cánh xong, dựa vào Trí ấn cũng có thể giáng hạ Bồ Đề tâm từ đỉnh đầu xuống phần cuối bí mật (tức quy đầu hoặc âm đế. Nếu là nữ giới có lúc không chỉ âm đế - mồng đóc mà nói cổ tử cung – Hải Loa mạch)”. Bồ Đề tâm là Thức thứ 8 mà chúng sinh vốn có – tức A Lại Da thức – Tâm này vô hình vô tướng, làm sao có thể nói là dựa vào quán tưởng mà biến thành Minh điểm? Bồ Đề Chân Tâm này đồng thời đồng xứ phổ khắp cùng thập bát giới của chúng sinh, không giới nào là không phổ đến, làm sao có thể nói là dựa vào sự quán hành của Ý thức để biến thành Minh điểm, tụ ở trong khối tâm bằng thịt? Hoặc giáng nhập xuống Hải Để luân chỗ bí mật (tam giác mật), thậm vô lý. Thế mà Mật tông từ khi phái Cát Đương ra đời, cho đến khi phân liệt thành tứ đại phái sau này đến nay, tất thảy đều sai lầm cho rằng Minh điểm là Chân Bồ Đề Tâm như thế, hoàn toàn trái ngược với Thánh giáo lượng trong kinh điển Tam thừa.

Các tổ sư cổ kim của Mật tông đều cho rằng tu luyện Minh điểm, kết hợp với Nhân quán, Đạo quán, Huệ quán, Vô thượng Mật quán và việc quán tưởng Mạch tự là có thể thành tựu Tam thân Tứ trí của Phật địa (61-559~561). Kỳ thực, những điều này hoàn toàn không liên quan gì đến đạo thành Phật của Phật pháp. Cũng như khẩu quyết của Mật Lặc Nhật Ba nói: “Khẩu quyết có thể giải thích truyền qua tai, khi nơi thâm sâu nhất của tâm lĩnh nạp, thì tựa như muối hòa vào nước thành một vị. Khi trí tuệ khai hiển bên trong, những chuyện thị phi nghi hoặc phút chốt đoạn diệt, về căn bản sau đó đắc mộng tỉnh giác. Khi quán sát sâu sự sản sinh đại lạc, chư pháp hiển thị ra khiến tự giải thoát, như hơi nước chưng cất tiêu biến trong không gian...Vốn dĩ Minh thể trí tuệ hiện ra, sáng soi như nước tịnh như gương bạc....Khi giải thoát khỏi các hành động thủ xả, tâm lìa mọi hành động mà an trú, ...lúc này cảnh thức đều tự phân, như chia thành bầy ngựa và bò dê, sợi dây trói buộc giữa tâm và các uẩn đều đứt đoạn! Ta đã lợi dụng thân người quý báu để hoàn thành hành đạo Yoga” (4-3-480). Kỳ thực là lấy Ý thức quán tưởng Minh thể trụ vào trong cảnh giới Lạc Không bất nhị, cho rằng đó là hoàn thành tu chứng thành Phật; Một Mật Lặc Nhật Ba như thế mà vẫn chưa thể chứng đắc “Chân Tướng thức” A Lại Da, là lại coi Minh điểm là A Lại Da thức, chưa hề nhập vào đạo vị chân kiến của Đại thừa, huống hồ là thành Phật? Thế mà lại nói đó là tu chứng quả địa tức thân thành Phật?

Các tổ sư cổ kim của Mật tông khi tu Thiền định cũng đều lấy Minh Quang đại thủ ấn và Minh điểm Mạch khí, sự tu chứng song thân pháp làm pháp môn, thì chắc chắn cũng không thể chứng được Tứ thiền Bát định, cho nên có thể nói trình độ Thiền định của họ đều thấp. Đó là do không rời khỏi dâm dục của Dục giới, cho nên Thiền định mà họ có được đều không thể vượt qua khỏi phạm vi của Dục giới định, bởi vì muốn tu chứng Sơ thiền thì nhất định phải lìa xa được nam nữ dục ở Dục giới. Pháp tu “Thiền định Mật tông” như thế đều là “Thiền định” của cảnh giới vọng tưởng, không phải là Thiền định thật sự. Về pháp tu Minh điểm và Mạch khí, tôi sẽ có thuyết minh chi tiết hơn ở Chương 2. Còn những thứ như Vô thượng Yoga, Đại lạc quang minh, Lạc Không song vận, Lạc Không bất nhị... sẽ thuyết minh thêm ở trong Chương 9.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31421


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg