The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  VỢ TÔI BỊ TÀ SƯ LÀM BÙA PHÉP ĐÃ ĐẾN BỜ LY HÔN RỒI

 

VỢ TÔI BỊ TÀ SƯ LÀM BÙA PHÉP ĐÃ ĐẾN BỜ LY HÔN RỒI

(Bài viết này do đương sự kể cho tôi nghe, được biên tập chỉnh lý, cung cấp cho mọi người tham khảo. Nguyện đem công đức của bài viết này hồi hướng cho cặp vợ chồng này, mong cô ấy sớm biết quay đầu là bờ, trở về với chính tín.)

Tôi và vợ đi đến núi Phổ Đà vào tháng 5 năm 2010, quen biết một vị Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền. Sau đó, hai bên đã lưu lại số điện thoại của nhau và giữ liên lạc với nhau.

Cho đến tháng 4 năm 2011, Lạt Ma gọi điện đến, nói là muốn đến chỗ chúng tôi thăm thú. Sau đó, tôi và vợ đã nhiệt tình tiếp đón ông ấy, mua vé máy bay cho, thế là ông ấy đến. Cứ ngỡ ông ta là người tốt, bèn mời ông ấy ở nhà 4, 5 hôm. Trong khoảng thời gian đó, có lẽ là bị tà pháp mê hoặc, thêm vào đó trong lòng cứ nghĩ người xuất gia thì chắc chắn phải là người tốt, ông ấy đến nhà tôi làm phép, tôi cho rằng đó là việc tốt. Không ngờ rằng, từ lúc làm phép xong thì vợ tôi cũng thay đổi luôn. Thay đổi toàn bộ cả con người luôn ấy. Nhân sinh quan, giá trị quan, hôn nhân quan đều thay đổi hết. Người khác thì trông như bình thường, nhưng tôi thì lại biết cô ấy đã biến thành một người khác rồi.

Sau khi ở nhà tôi chơi 4, 5 ngày, thì ba chúng tôi cùng đi đến Bắc Kinh. Ở Bắc Kinh chơi khoảng 3 ngày, thì ông ta để lộ ra đuôi cáo. Vì hai bên coi nhau là bạn bè rồi, cho nên ông ấy buông lơi cảnh giác, bỗng nhiên tán phét với tôi về phụ nữ, lộ ra nguyên hình nguyên tướng. Tôi bất giác cảm thấy rằng, sao một người xuất gia mà ngang nhiên có hứng thú với phụ nữ? Ông ấy thì thào với tôi về những người phụ nữ trên đường phố, có lẽ ông ấy cho rằng tôi không hiểu về lĩnh vực này. Nhưng về vấn đề này, tôi vẫn là người có chính tri chính kiến. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: “Dâm tâm không trừ, trần không thể xuất” mà.

Sau này, ông ấy liên lạc với tôi nhiều, còn nói để vợ tôi đi đến chỗ ông ấy, nói vợ tôi đã từng tu hành ở đời trước, là sư muội của ông ấy. Ông ấy cứ khuyên để vợ tôi đến chỗ ông ta.

Tôi sở dĩ nghi ngờ ông ta là tà sư, chủ yếu là dựa trên 2 điểm sau:

Điểm nghi ngờ thứ nhất: Ông ấy nói chuyện về phụ nữ với tôi, lại nói vợ tôi đã từng tu hành ở đời trước, là sư muội của ông ta. (Thủ Nguyệt Lượng chú thích: Có rất nhiều tà sư đều dùng lối nói này để lôi kéo, dụ dỗ phụ nữ vào tròng, sau đó thì bày trò song tu).

Điểm nghi ngờ thứ hai: Từ lúc ông ấy đến, thì vợ bắt đầu nhìn tôi không vừa mắt nữa. Cứ lúc nào ăn cơm là bắt đầu vạch tội, chỉ trích tôi. Bởi vì tôi đã sinh nghi với ông ta rồi, nên về đến nhà, tôi làm quen với một cao nhân trên mạng, rồi đem ảnh chụp chung của chúng tôi đưa cho cao nhân ấy xem. Cao nhân xem tấm ảnh xong, nói tà khí của người này rất nặng, không được qua lại với ông ta. Đến lúc đó thì tôi mới nhận ra tính nghiêm trọng của sự việc.

Tuy là chúng tôi đã nói rõ với ông ấy qua điện thoại rằng từ nay về sau đừng có qua lại nữa. Chúng tôi tìm đến nhà tiên (bên Đạo giáo) ở địa phương để phá giải. Tiên gia e rằng pháp lực của mình không bằng ông ta. Tiên gia bảo hãy đốt hai ngọn nến ở bên cửa sổ phòng ngủ, đốt 3 ngày. Không ngờ, đốt xong nến thì mơ thấy Lạt Ma chất vấn vợ tôi, nói với cô ấy rằng: “Sao cô lại đốt nến?” Chúng tôi còn dùng đến các pháp hóa giải khác, cũng đều không được như ý.

Tôi cứ ngỡ rằng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Nhưng, từ sau việc đó trở đi, tính tình vợ tôi đã có sự thay đổi lớn. Ôi! Càng ngày càng nghiêm trọng! Không những là quan hệ không bằng trước, bây giờ còn đòi ly hôn với tôi nữa. Tôi nói hết nước hết cái cũng không được, nhưng hôn nhân của chúng tôi thì như thế đó.

Vợ tôi đã không còn tin ông ta nữa. Nhưng mà trong bồn hoa mà ông ta tặng đã bày trí phong thủy đào hoa ngoại tình rồi. Vợ tôi đã trật quỹ đạo rồi. Cô ấy đều đã thừa nhận cả rồi. Tôi đã tha thứ cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng chúng ta hãy sống cho tốt những ngày tháng, tu hành cho tốt, nhưng cô ấy vẫn muốn ly hôn với tôi. Ôi chao!

Đến tháng 11 năm 2011, tôi nói cô ấy nên đi cầu cứu Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi phải làm thế nào mới có thể phá giải được tà pháp này? Cô ấy đi đả tọa (ngồi thiền), bay đi Tây phương, rồi gặp được Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát nói với cô ấy: “Đây là chướng ngại trên đường tu hành của con. Con nên có lòng tin, nên dâng hương nhiều và niệm Đại Bi chú, vượt qua cửa ải khó khăn này!” Nếu không vậy thì làm sao mà tôi biết niệm Đại Bi chú chứ. Chính vì nguyên do này, cho nên tôi bắt đầu niệm Đại Bi chú.

Tình trạng của cô ấy bây giờ là: Đảo lộn trắng đen, trái phải bất phân, tính tình đổi hẳn. Trước đây vợ tôi rất thoáng, chúng tôi xưa kia rất ân ái yêu thương nhau, bây giờ cô ấy cứ muốn đòi ly hôn với tôi. Ngày trước, cô ấy là người rất tin Phật, bây giờ thì căn bản không còn tin nữa, tất cả đều là do tà pháp làm hại. Bây giờ bỗng dung lại thành ra thế này đây. Tà pháp thế mà lại có uy lực lớn đến như vậy đó. Ngày trước còn cùng tôi niệm một chút Đại Bi chú, bây giờ đến học Phật cũng không thèm học nữa, niệm chú cũng không niệm nữa. Tôi hỏi cô ấy vì sao không niệm Đại Bi chú nữa? Cô ấy nói không muốn niệm, nói bây giờ căn bản không tin cái này nữa. Điên đảo đến là lợi hại, đều là do tà pháp hại mà ra cả.

Chúng tôi giờ tuyệt đối không còn qua lại với ông ta (Lạt Ma) nữa rồi, bởi vì vợ tôi cũng đã biết ông ta là tà nhân. Những thứ mà Lạt Ma tặng cho cũng đều đốt hết đi rồi, đã thiêu hủy toàn bộ rồi.

Chúng tôi đã mời người lạ vào nhà ở, không hề có một chút cảnh giác nào. Cuối cùng là cõng rắn cắn gà nhà. Ôi! Giờ tôi hối hận cũng không kịp nữa rồi!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nguồn nguyên văn bài viết lấy từ:

http://www.bskk.com/forum.php?mod=viewthread&tid=2831703&reltid=2837479&pre_thread_id=2857465&pre_pos=10&ext=CB

 

Từ khóa: Lạt Ma, Phật giáo Tạng truyền, song tu, Đại Bi chú

 

Trước đó: THỐNG KÊ TUỔI THỌ CỦA CÁC ĐỜI ĐẠT LAI LẠT MA

Tiếp theo: KINH NGHIỆM XƯƠNG MÁU LẤY CHỒNG PHẬT SỐNG CỦA TÔI

trang chủ

lượt xem trang: 3


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg